Đó
là
chia
sẻ
của
TS.
Phạm
Sỹ
Thành,
Giám
đốc
Chương
trình
Nghiên
cứu
Kinh
tế
Trung
Quốc
thuộc
VEPR
(VCES)
về
phòng
vệ
thương
mại
tại
Việt
Nam
hiện
nay.
TS.
Thành
(ngoài
cùng
bền
trái)
chia
sẻ
với
doanh
nghiệp
về
hàng
rào
thuế
quan
tại
hội
thảo
Theo
ông
Thành,
Việt
Nam
thường
dùng
các
biện
pháp
thuế
quan
để
bảo
vệ
doanh
nghiệp
khi
ra
nhập
các
hiệp
định
thương
mại
tư
do,
điều
này
phản
ánh
mức
độ
hội
nhập
của
Việt
Nam
chưa
sâu
rộng.
Ông
Thành
dẫn
chứng,
trong
khoảng
60
loại
thuế
quan
có
thể
sử
dụng,
Việt
Nam
đã
dùng
24
loại.
Tỉ
lệ
này
ở
Malaysia,
Hàn
Quốc
hay
các
nước
khác
rất
thấp.
Trong
hội
nhập,
khi
hàng
rào
thuế
quan
hạ
xuống
hay
gỡ
bỏ
thì
hàng
rào
kỹ
thuật
các
nước
phát
triển
dựng
lên
nhiều
và
rất
tinh
vi.
Doanh
nghiệp
Việt
Nam
thường
gặp
các
hàng
rào
về
vệ
sinh
an
toàn
thực
phẩm,
xuất
xứ
hàng
hóa,
lao
động,
môi
trường…
Trong
khi
đó,
những
lý
do
mà
Việt
Nam
ít
sử
dụng
hàng
rào
kỹ
thuật
là
việc
thiết
lập
ra
hàng
rào
kỹ
thuật
khó
vì
phải
xác
định
được
mức
độ
kỹ
thuật
để
thiết
lập.
“Chúng
ta
cao
1,2
mét
nhưng
lại
làm
hàng
rào
cao
1,8m
để
chặn
các
doanh
nghiệp
từ
EU
hay
Nhật
Bản
thì:
thứ
nhất,
hàng
rào
mình
thấp
họ
chỉ
nhảy
nhẹ
cũng
qua,
thứ
hai
tự
mình
cũng
không
thể
nhảy
qua
được”,
ông
Thành
nói.
Ông
Thành
băn
khoăn
liệu
hàng
rào
của
Việt
Nam
có
đủ
để
tạo
ra
sự
bảo
hộ
với
doanh
nghiệp
trong
nước?
Và
khi
các
quốc
gia
khác
có
hàng
rào
kỹ
thuật
tương
tự
thì
doanh
nghiệp
Việt
Nam
có
vượt
qua
được
hay
không?...
“Đó
là
điều
bất
trắc
mà
các
bộ
ngành
Việt
Nam
chưa
lường
trước
nên
rất
hạn
chế
hàng
rào
kỹ
thuật”.
Ông
Thành
nhìn
nhận,
thời
gian
đến
năm
2018
là
tương
đối
ngắn
để
Việt
Nam
chuẩn
bị
cho
làn
sóng
hội
nhập,
bởi
đặc
điểm
của
TPP
và
FTA
với
EU
chế
tài,
pháp
lý
chặt
chẽ,
có
thể
bị
xử
phạt
đến
50
triệu
USD,
thậm
chí
là
ngồi
tù
nếu
vi
phạm
các
điều
khoản
trong
đó.
Đơn
cử
như
hàng
rào
thuế
quan
về
xuất
xứ
hàng
hóa
là
một
rào
cản
rất
lớn
với
Việt
Nam
trong
việc
thụ
hưởng
lợi
ích
từ
FTA.
Việc
đưa
hàng
rào
thuế
quan
qua
các
hiệp
định
là
rất
khó
khăn
và
khả
năng
bị
trả
đũa
rất
cao.
Trước
đây,
việc
cấp
xuất
xứ
hàng
hóa
do
Bộ
Công
thương
và
phần
nào
là
Phòng
thương
mại
và
công
nghiệp
Việt
Nam
(VCCI)
thực
hiện,
điều
này
làm
tăng
thời
gian
khi
doanh
nghiệp
đưa
hồ
sơ
lên.
Ngoài
ra,
việc
cấp
xuất
xứ
trước
đây
Việt
Nam
cấp
theo
đơn
hàng,
và
làm
rất
chậm,
không
theo
kịp
doanh
nghiệp.
Trong
khi
nhiều
tỉnh
được
quy
định
cấp
xuất
xứ
hàng
hóa
nhưng
không
giống
ai.
Hiện
nay,
Việt
Nam
đã
thay
đổi
bằng
cách
để
doanh
nghiệp
tự
chứng
minh
xuất
xứ,
tuy
nhiên
đó
là
quá
trình
dài
và
khó
khăn.
Mặt
khác,
khi
doanh
nghiệp
tự
chứng
minh
xuất
xứ
hàng
hóa
sẽ
có
gian
lận
thương
mại
bằng
cách
bán
xuất
xứ
đó
cho
doanh
nghiệp
nước
khác
chứ
không
phải
doanh
nghiệp
Việt
Nam.
Ông
Thành
cho
biết,
thực
tế,
mức
độ
thụ
hưởng
của
doanh
nghiệp
Việt
Nam
với
ưu
đãi
từ
FTA
khoảng
dưới
40%,
thậm
chí
là
25
–
30%,
các
ngành
khác
nhau
mức
độ
thụ
hưởng
khác
nhau.
Lý
do
là
Việt
Nam
thiếu
thông
tin
và
chi
phí
để
vượt
qua
hàng
rào
phi
thuế
quan
quá
lớn
nên
trở
ngại
cho
doanh
nghiệp.
Dù
vậy,
ông
Thành
cho
rằng,
kiện
không
phải
lúc
nào
cũng
xấu,
quan
trọng
là
bị
kiện
vì
cái
gì,
bởi
qua
những
vụ
kiện
cũng
là
cách
để
Việt
Nam
chuyển
từ
ao
nhà ra
chơi
với
thế
giới.
Bài,
ảnh:
T.
Quỳnh