Nhà
nông
của
ta,
tuy
sản
xuất
nhiều,
nhưng
chất
lượng
sản
phẩm
không
cao,
lợi
tức
vẫn
còn
thấp
so
với
quốc
tế
vì
chưa
có
tay
nghề
hiện
đại
và
chưa
được
tổ
chức
hữu
hiệu.
ĐBSCL,
nếu
muốn
thoát
nghèo
bền
vững,
cần
phát
triển
một
hệ
thống
kinh
doanh
đồng
bộ
kèm
theo
những
chính
sách
khuyến
khích.
Nông
thôn
cần
phải
được
nối
chặt
với
thị
trường
thành
thị
và
thị
trường
quốc
tế
nếu
muốn
làm
giàu.
Thị
trường
nông
sản
cạnh
tranh
hiện
nay
có
bốn
đòi
hỏi:
1)
Sản
phẩm
phải
đạt
chất
lượng
cao
nhất
theo
đòi
hỏi
của
người
tiêu
dùng;
2)
Khối
lượng
sản
phẩm
phải
đủ
lớn
để
chuyên
chở
ít
tốn
phí;
3)
Thời
điểm
giao
hàng
phải
đúng
theo
hợp
đồng;
và
4)
Giá
sản
phẩm
phải
thật
cạnh
tranh.
Nông
dân
sản
xuất
cá
thể
sẽ
không
bao
giờ
thỏa
mãn
được
các
điều
kiện
trên.
Hai
nhược
điểm
lớn
nhất
của
các
doanh
nghiệp
kinh
doanh
nông
sản
Việt
Nam
là
thiếu
đầu
óc
kinh
doanh,
và
do
đó
thiếu
thị
trường
ổn
định.
Số
doanh
nghiệp
đạt
các
tiêu
chuẩn
trên
chỉ
đếm
trên
đầu
ngón
tay!
Cho
nên
nhà
nông
của
ta,
tuy
sản
xuất
nhiều
như
thế,
nhưng
chất
lượng
không
cao,
lợi
tức
vẫn
còn
thấp
so
với
quốc
tế
vì
chưa
có
tay
nghề
hiện
đại
và
chưa
được
tổ
chức
hữu
hiệu.
Nhìn
sang
các
nước
láng
giềng
-
nhất
là
Thái
Lan
-
để
tăng
tính
cạnh
tranh
cho
nhà
nông
của
họ,
Nhà
nước
Thái
Lan
đã
áp
dụng
một
hệ
thống
kinh
doanh
đồng
bộ
kèm
theo
những
chính
sách
khuyến
khích.
ĐBSCL
của
Việt
Nam
nếu
muốn
thoát
nghèo
bền
vững,
cũng
cần
phát
triển
một
hệ
thống
như
vậy.
Tổ
chức
sản
xuất
và
kinh
doanh
nông
sản
theo
chuỗi
giá
trị
gia
tăng
Tại
ĐBSCL,
nếu
chính
sách
đầu
tư
của
Nhà
nước
được
tập
trung
thì
chính
lực
lượng
lao
động
nông
thôn
sẽ
có
điều
kiện
tốt
để
biến
các
tiềm
năng
mũi
nhọn
thành
hiện
thực.
Đó
là
tiềm
năng
từ
cây
lúa,
cây
ăn
trái
nhiệt
đới,
hoa
màu,
cây
kiểng,
thủy
sản,
gia
súc...
Điển
hình
là
cây
lúa,
có
diện
tích
lớn
nhất
và
lực
lượng
lao
động
tham
gia
nhiều
nhất,
phải
sản
xuất
cho
được
các
loại
lúa
chất
lượng
cao
cho
thị
trường
cao
cấp,
đồng
thời
cũng
sản
xuất
lúa
cấp
thấp
cho
các
nước
nghèo.
Lợi
thế
về
cây
lúa
đến
nay
vẫn
chưa
được
khai
thác
đúng
mức
vì
chưa
có
tổ
chức
hợp
lý
theo
chuỗi
giá
trị
gia
tăng,
nên
đầu
tư
tản
mạn
và
hệ
thống
thị
trường
bị
phân
khúc.
Do
đó
gạo
Việt
Nam
xuất
khẩu
phần
lớn
không
có
thương
hiệu.
Cần
đầu
tư
cho
cây
lúa
ĐBSCL
theo
chuỗi
giá
trị,
trong
đó
công
nghiệp
hóa
các
công
đoạn
của
quá
trình
trồng
ra
cây
lúa
đến
chế
biến
hạt
lúa
và
rơm
rạ
(xem
hình
1)
phải
được
ứng
dụng
kỹ
thuật
mới
để
có
sản
phẩm
có
thương
hiệu,
đồng
thời
duy
trì
sự
bền
vững
của
môi
trường,
khắc
phục
nguy
cơ
biến
đổi
khí
hậu.
Để
làm
được
điều
này,
đầu
tiên
cần
đầu
tư
cho
cơ
sở
hạ
tầng
nông
thôn,
xóa
cầu
khỉ
và
bê
tông
hóa
đường
nông
thôn,
nhất
là
vùng
sâu
vùng
xa.
Đây
là
bước
nhảy
vọt
đầu
tiên
để
rút
ngắn
khoảng
cách
nông
thôn
-
thành
thị,
tạo
điều
kiện
cho
nông
thôn
dễ
tiếp
cận
các
dịch
vụ
tín
dụng
cùng
nguồn
nhân
lực
đã
được
đào
tạo.
Để
công
nghiệp
hóa
các
cụm/vùng
quy
hoạch
kinh
doanh
nông
sản
(chủ
yếu
là
chế
biến,
và
bảo
quản
sau
thu
hoạch),
mỗi
cụm/vùng
quy
hoạch
trồng
một
loại
nông
sản
(lúa,
trái
cây,
rau)
cần
được
đầu
tư
nhà
máy
có
thiết
bị
hiện
đại
để
xử
lý
và
bảo
quản
nông
sản.
Ví
dụ,
đối
với
lúa,
việc
sấy
lúa
đạt
chuẩn
14%
ẩm
độ
và
gặt
lúa,
xay
chà,
đánh
bóng
gạo
cần
những
máy
móc
đa
năng.
Đối
với
rau
quả,
những
nhà
máy
chế
biến
rau
quả
sẽ
bắt
đầu
bằng
những
dụng
cụ
xử
lý
rau
quả
theo
đúng
quy
trình
kỹ
thuật,
đóng
gói
bao
bì
trước
khi
đưa
vào
phòng
bảo
quản
ở
nhiệt
độ
tối
hảo,
như
cam
quít
(sản
phẩm
trái
tươi,
nước
cam
tươi
hoặc
cô
đặc,
mứt
vỏ
cam),
xoài
(tươi,
xoài
sấy
khô,
nước
xoài),
ổi
(tươi,
nước
ổi),
dừa
(tươi,
dừa
nạo
sấy
khô,
bột
nước
cốt
dừa,
kẹo
dừa).
Đối
với
thủy
sản,
cần
có
nhà
máy
chế
biến
thủy
sản,
đặc
biệt
phải
có
máy
cấp
đông
cá
tôm;
thiết
bị
chế
biến
những
sản
phẩm
từ
cá
tôm
(phi
lê
cá,
mắm,
khô,
nước
mắm...)...
Khuyến
khích
sự
hợp
tác
các
“nhà”
Chúng
ta
cần
một
hệ
thống
chính
sách
khuyến
khích
có
khả
năng
điều
phối
các
mũi
tiến
công
một
cách
nhịp
nhàng,
bổ
trợ
lẫn
nhau
thay
cho
sự
triệt
tiêu
lẫn
nhau
rất
phổ
biến
hiện
nay.
Hệ
thống
chính
sách
khuyến
khích
này
liên
kết
nhiều
“nhà”
tham
gia
sản
xuất
với
kỹ
thuật
cao
trong
chuỗi
giá
trị
gia
tăng,
bao
gồm
các
bước
cơ
bản
sau
đây:
Bước
1,
cần
xác
định
lợi
thế
tương
đối
của
từng
vùng
đặc
thù
của
lãnh
thổ:
cần
xem
lại
quy
hoạch
tổng
thể
của
nước
ta
và
cụ
thể
cho
từng
vùng
sản
xuất
của
ĐBSCL,
vùng
nào
có
thế
mạnh
về
cây
gì,
con
gì
có
lợi
thế
hơn
vùng
khác
hoặc
quốc
gia
khác.
Trên
cơ
sở
khoa
học
đó,
Nhà
nước
địa
phương
xây
dựng
cơ
sở
hạ
tầng
phù
hợp
để
tạo
điều
kiện
tốt
cho
nông
dân
sản
xuất
mặt
hàng
đó.
Bước
2,
Nhà
nước
và
doanh
nghiệp
xác
định
thị
trường
cho
từng
sản
phẩm
mũi
nhọn
ấy
để
chuẩn
bị
xúc
tiến
thương
mại.
Bước
3,
tổ
chức
tập
hợp
nông
dân
trong
từng
vùng
sản
xuất
đã
xác
định
trên
đây
nhằm
xây
dựng
từng
“cụm
liên
kết
sản
xuất
theo
nông
nghiệp
kỹ
thuật
cao”
hoặc
những
hợp
tác
xã
nông
nghiệp
có
khả
năng
tạo
ra
những
sản
phẩm
có
thương
hiệu
nổi
tiếng
trong
nước
và
quốc
tế.
Chính
sách
về
kinh
tế
hợp
tác
của
Nhà
nước
tuy
đã
ban
hành
lâu
rồi
nhưng
đến
nay
vẫn
chưa
có
nhiều
kết
quả
khả
quan
vì
thiếu
nhiều
yếu
tố
khuyến
khích
nông
dân,
vì
phần
lớn
các
hợp
tác
xã
đã
hình
thành
vẫn
còn
hoạt
động
riêng
lẻ,
nên
đầu
ra
cho
sản
phẩm
phó
thác
cho
thương
lái.
Trong
giai
đoạn
tới,
chúng
ta
cần
có
những
nông
dân
xã
viên
của
các
hợp
tác
xã,
hoặc
thành
viên
của
các
cụm
liên
kết
sản
xuất
nông
nghiệp
kỹ
thuật
cao,
có
kiến
thức
và
tay
nghề
cao
nhất.
Bước
4,
tập
hợp
các
nhà
khoa
học
kỹ
thuật:
gồm
các
bộ,
ngành
chuyên
môn,
trường
đại
học
hoặc
trung
tâm,
viện
nghiên
cứu
gần
nhất
với
hợp
tác
xã
hoặc
cụm
liên
kết,
để
nghiên
cứu
và
ứng
dụng
quy
trình
kỹ
thuật
trong
sản
xuất,
đóng
gói
và
kiểm
định
chất
lượng
và
an
toàn
vệ
sinh
thực
phẩm.
Bước
5,
tập
hợp
các
doanh
nghiệp
tham
gia
hoạt
động
sản
xuất
và
tiêu
thụ
sản
phẩm,
gồm
ngân
hàng,
công
ty
hóa
chất
nông
nghiệp,
công
ty
bảo
quản,
chế
biến
bao
bì,
phân
phối
cho
mạng
lưới
đại
lý
trong
nước,
và
xuất
khẩu
hàng
có
thương
hiệu
sang
Nhật
Bản,
Úc,
châu
Âu,
Mỹ...
Chính
sách
kinh
tế
hợp
tác
khi
được
tổ
chức
thành
hợp
tác
xã
hoặc
cụm
liên
kết
sản
xuất
nông
nghiệp
kỹ
thuật
cao
như
trình
bày
một
cách
tổng
quát
trên
đây
sẽ
có
tác
dụng
quyết
định
đến
tính
cạnh
tranh
của
nông
sản
Việt
Nam
qua
tác
động
trên
cả
ba
khu
vực
nông
nghiệp,
công
nghiệp,
và
dịch
vụ
của
ta.
Vai
trò
điều
phối
của
Nhà
nước
sẽ
quyết
định
sự
thành
bại
của
sự
liên
kết
của
năm
nội
dung
trên
đây.
_________________________
(*)
Hiệu
trưởng
Đại
học
Tân
Tạo
___________________
Giá
lúa
gạo
tăng
mạnh
Ngay
sau
những
ngày
nghỉ
lễ,
giá
lúa
gạo
trong
nước
bất
ngờ
tăng
khá
mạnh,
lên
mức
giá
cao
nhất
trong
ba
tháng
trở
lại
đây.
Ông
Dương
Văn
Mến
ở
huyện
Lấp
Vò,
Đồng
Tháp,
thương
lái
chuyên
mua
lúa
hàng
hóa
tại
các
tỉnh
ĐBSCL,
cho
biết
hiện
lúa
IR
50404
tươi
có
giá
4.700-4.900
đồng/ki
lô
gam;
IR
50404
khô
giá
5.500-5.600
đồng/ki
lô
gam,
tăng
200-300
đồng/ki
lô
gam
kể
từ
sau
lễ
đến
nay.
Các
giống
lúa
hạt
dài
như
OM
5451,
OM
4900,
OM
4128,
OM
4900...
cũng
tăng
khá
mạnh
so
với
mức
giá
trước
kỳ
nghỉ
lễ,
lên
mức
5.000-6.000
đồng/ki
lô
gam.
Giá
gạo
nguyên
liệu
và
thành
phẩm
tại
chợ
đầu
mối
lương
thực
Bà
Đắc,
huyện
Cái
Bè,
Tiền
Giang,
cũng
tăng
khá
mạnh.
Cụ
thể,
đối
với
gạo
nguyên
liệu
(gạo
lứt)
của
giống
IR
50404
được
giao
dịch
với
mức
giá
7.100-7.200
đồng/ki
lô
gam;
gạo
nguyên
liệu
của
các
giống
lúa
hạt
dài
từ
7.300-7.500
đồng/ki
lô
gam,
tăng
100-250
đồng/ki
lô
gam.
Gạo
thành
phẩm
(gạo
trắng)
cũng
tăng
khá
mạnh,
lên
mức
7.900-8.400
đồng/ki
lô
gam
(tùy
chế
biến
gạo
5%,
15%
hay
25%
tấm);
10.000-13.000
đồng/ki
lô
gam
đối
với
gạo
thơm
(tùy
loại).
Giá
lúa
gạo
tăng
mạnh
trở
lại
do
nhu
cầu
của
các
doanh
nghiệp
tiêu
dùng
nội
địa
lẫn
xuất
khẩu
tăng
lên,
trong
khi
đó,
nguồn
cung
đang
khan
hiếm
dần.
Trung
Chánh |