Nông
sản
xuất
khẩu
sang
Trung
Quốc
ở
dạng
thô.
Ảnh:
Lê
Hoàng
Yến
Những
trái
cây
nhập
từ
Thái
Lan
có
cùng
chủng
loại
ở
đồng
bằng
sông
Cửu
Long
(ĐBSCL)
như
sầu
riêng,
bòn
bon,
măng
cụt,
nhãn,
xoài…
bắt
đầu
tràn
vào
thị
trường.
Nhiều
loại
sầu
riêng
được
khẳng
định
“không
nhúng
thuốc”.
Giá
trị
nhập
khẩu
từ
Thái
Lan
lên
đến
134,8
triệu
USD
thực
sự
là
mối
lo
ngại
cho
nông
sản
ĐBSCL,
hay
chính
cách
“nhắm
mắt
làm
càn”
khiến
sức
ép
ngày
càng
gia
tăng
với
sản
xuất
trong
nước.
Tại
ĐBSCL,
nhiều
khu
vườn
trái
cây
bản
địa
đã
bị
triệt
hạ
gần
hết.
Nhà
vườn
muốn
bán
trái
cây
phải
nói
“chôm
chôm
Thái,
xoài,
ổi
Đài
Loan…”
Một
sự
thẩm
thấu
nhẹ
nhàng
đang
lấn
át
nguồn
gen
bản
địa
chứ
không
chỉ
là
mua
đi
–
bán
lại
theo
đường
tiểu
ngạch.
Đã
có
những
nỗ
lực
tái
cơ
cấu
nông
nghiệp,
hình
thành
“Cánh
đồng
mẫu
lớn”,
kết
nối
“bốn
nhà”
(nhà
nông,
nhà
ngân
hàng,
nhà
khoa
học,
nhà
doanh
nghiệp
chế
biến
–
xuất
khẩu).
Tuy
nhiên,
những
nỗ
lực
này
chưa
tạo
được
sức
đột
phá.
Theo
bộ
Nông
nghiệp
và
phát
triển
nông
thôn,
kim
ngạch
xuất
khẩu
nhóm
hàng
nông
lâm
thuỷ
sản
chín
tháng
đầu
năm
2015
là
21,65
tỉ
USD,
giảm
5%
so
với
cùng
kỳ
năm
2014.
Từ
cách
đây
hai
năm,
giá
bán
sản
phẩm
cây
trồng
ngắn
ngày
giảm
1,46%,
cây
ăn
trái
lâu
năm
giảm
2,46%,
chăn
nuôi
giảm
9,09%,
thuỷ
sản
giảm
0,39%.
Và
từ
đó
đến
nay,
giá
đầu
vào
của
sản
xuất
nông
nghiệp
như
giống,
phân
bón,
thuốc
bảo
vệ
thực
vật,
thức
ăn
chăn
nuôi...
luôn
tăng
cao.
Cuộc
cạnh
tranh
sau
ngày
1.1.2016,
khi
“đoàn
tàu”
Cộng
đồng
kinh
tế
ASEAN
(AEC)
chuyển
động,
sức
ép
đối
với
nông
sản
ĐBSCL
sẽ
càng
gay
gắt.
Nhất,
nhì
thế
giới,
sao
vẫn
nghèo?
Văn
phòng
Quốc
hội
tổ
chức
diễn
đàn
chính
sách
“Tiêu
thụ
hàng
nông
sản
trong
bối
cảnh
hội
nhập:
Kinh
nghiệm
từ
ĐBSCL”
tại
thành
phố
Cần
Thơ
(1
–
2.10).
Tại
diễn
đàn,
TS
Lê
Đăng
Doanh
thẳng
thắn
nói:
“Sự
thật
là
dù
xuất
khẩu
hàng
nông
sản
của
Việt
Nam
thuộc
nhóm
nhất,
nhì
thế
giới
nhưng
phần
lớn
nông,
lâm,
thuỷ
sản
ở
dạng
thô
hay
sơ
chế,
giá
trị
gia
tăng
còn
hạn
chế,
chất
lượng
thấp
và
không
đồng
đều”.
Ở
Mekong
Connect
CEO
Forum
2015
do
hội
Doanh
nghiệp
Hàng
Việt
Nam
chất
lượng
cao
tổ
chức
tại
Cần
Thơ,
và
tại
diễn
đàn
này
ông
Doanh
nhấn
mạnh
“điểm
nghẽn”
khi
phần
lớn
nông
sản
xuất
khẩu
của
Việt
Nam
chưa
có
thương
hiệu
được
quốc
tế
công
nhận,
từ
gạo
đến
chè,
càphê,
hạt
tiêu.
Giá
các
sản
phẩm
xuất
khẩu
thuộc
loại
thấp
so
với
nông
sản
Thái
Lan
hay
các
nước
khác.
Ngày
4.9,
“Mekong
Connect”
được
đánh
giá
là
sáng
kiến
kết
nối
lãnh
đạo
địa
phương,
doanh
nghiệp
của
bốn
tỉnh
ABCD
(An
Giang,
Bến
Tre,
Cần
Thơ,
Đồng
Tháp)
nhằm
hợp
tác
với
nhau
và
với
các
doanh
nghiệp
tiên
phong
ở
TP.HCM
tốt
hơn;
một
trong
những
trọng
tâm
thảo
luận
và
kêu
gọi
hành
động
nhằm
thúc
đẩy
nông
nghiệp
ĐBSCL
tự
tin
khi
hội
nhập
quốc
tế.
Lúa
gạo,
trái
cây,
cá
tôm…
được
đề
cập
như
bài
toán
khó.
Tại
diễn
đàn
này,
TS
Doanh
cho
rằng
nông
dân
trồng
lúa
không
thể
giàu
lên
được.
Ông
phân
tích:
“Nếu
đạt
30%
lợi
nhuận
cho
người
trồng
lúa,
mỗi
nhân
khẩu
sản
xuất
lúa
ở
ĐBSCL
có
thể
đạt
mức
lãi
3,8
triệu
đồng/năm
(khoảng
317.000
đồng/tháng),
tức
là
dưới
cả
ngưỡng
nghèo
(400.000
đồng/tháng).
Thu
nhập
của
nông
dân
thấp,
chưa
bằng
bình
quân
chung
của
cả
nước.
Nông
sản
các
nước
đang
cạnh
tranh
ngày
càng
mạnh
mẽ
trên
thị
trường
nội
địa,
đặc
biệt
là
nông
sản
tại
ĐBSCL”.
GS.TS
Võ
Tòng
Xuân,
hiệu
trưởng
trường
ĐH
Nam
Cần
Thơ
xót
xa
nói:
“Khi
CEO
của
Apple,
Tim
Cook,
cho
biết
ngày
29.9.2015,
khi
chiếc
iPhone
6s
mới
xuất
hiện
trên
thị
trường
đã
bán
được
13
triệu
chiếc
với
giá
từ
13
–
19
triệu
đồng/chiếc,
thì
gạo
–
mặt
hàng
chiến
lược
của
Việt
Nam
–
bị
tụt
giá,
thấp
thê
thảm
mà
vẫn
không
bán
được.
“May
phước”,
Philippines
thiếu
gạo
đã
đặt
mua
450.000
tấn
gạo
giá
rẻ
của
Việt
Nam”.
Vì
sao
có
sự
khác
biệt
lớn
như
vậy?
Đừng
chạy
theo
số
lượng
nữa!
GS.TS
Võ
Tòng
Xuân
cho
rằng:
1/
Sản
xuất
nông
nghiệp
không
theo
thị
trường,
duy
ý
chí,
tự
phát;
2/
Mỗi
sản
phẩm
đưa
ra
thị
trường
chưa
được
tổ
chức
sản
xuất
theo
chuỗi
giá
trị;
cần
thực
hiện
đúng
quy
trình
GAP
được
liên
kết
bốn
nhà,
nòng
cốt
là
doanh
nghiệp
đầu
ra
gắn
kết
với
HTX
nông
nghiệp;
3/
Thị
trường
quyết
định
sự
tiêu
thụ
mọi
nông
sản
phẩm;
cơ
chế
chính
sách
phải
thay
đổi,
đặc
biệt
là
những
chính
sách
giúp
đẩy
mạnh
sản
xuất
nông
nghiệp
công
nghệ
cao,
thu
hút
doanh
nghiệp
lớn
đầu
tư
vào
nông
nghiệp,
xem
doanh
nghiệp
là
lực
lượng
tiên
phong
thì
mới
có
thể
giải
quyết
được
bài
toán
về
thị
trường;
4/
Doanh
nghiệp
có
vai
trò
quyết
định:
tìm
hoặc
mở
thị
trường
tiêu
thụ
sản
phẩm
chế
biến
từ
nông
sản
nguyên
liệu.
Doanh
nghiệp
phải
được
đào
tạo
có
bài
bản
và
ưu
đãi
vốn
sản
xuất,
hàng
có
thương
hiệu…
Theo
TS
Lê
Đăng
Doanh,
do
phần
lớn
sản
phẩm
chưa
tham
gia
chuỗi
giá
trị
quốc
tế,
chưa
có
hợp
đồng
dài
hạn
hay
hợp
đồng
giao
sau,
nên
nông
sản
xuất
khẩu
khối
lượng
lớn
nhưng
rất
bấp
bênh
và
phụ
thuộc
quá
nhiều
vào
một
thị
trường
đầy
may
rủi
là
xuất
khẩu
tiểu
ngạch
hay
biên
mậu
qua
Trung
Quốc.
Phong
trào
rất
thiện
chí
vận
động
“tiêu
thụ
giúp”
cho
nông
dân
tiêu
thụ
nông
sản
khê
đọng,
thực
ra
không
thay
thế
được
thị
trường,
không
khắc
phục
được
nhược
điểm
sản
xuất
không
theo
yêu
cầu
thị
trường.
Nhiều
chuyên
gia
kêu
gọi
“đừng
chạy
theo
số
lượng
nữa,
hãy
chú
tâm
nhiều
hơn
vào
việc
nâng
cao
chất
lượng
(từ
giống,
tổ
chức
bảo
quản,
chế
biến,
tổ
chức
kênh
phân
phối,
hàng
hoá
đúng
quy
cách…),
đáp
ứng
đúng
nhu
cầu
của
nơi
mua
hàng.
Riêng
TS
Lê
Đăng
Doanh
kêu
gọi:
cần
có
quyết
tâm
lớn
nhất
và
lãnh
đạo
sáng
suốt
để
có
chuyển
biến
mạnh
mẽ,
căn
bản
và
hiệu
quả;
cần
thu
hút
mạnh
đầu
tư
vào
ĐBSCL.
Theo
ông,
ứng
dụng
khoa
học
–
công
nghệ
có
ý
nghĩa
quyết
định
năng
lực
cạnh
tranh
kinh
tế,
an
ninh,
quốc
phòng
và
tăng
trưởng
bền
vững
ở
vùng này.
Từ
những
góc
nhìn
khác,
nhiều
chuyên
gia
cho
rằng
cán
bộ
xúc
tiến
thương
mại
cũng
phải
học
lại,
phải
nhập
cuộc
để
thấy
hết
những
nút
thắt,
rào
cản,
nghịch
lý
đang
gây
cản
ngại,
tiến
tới
đạt
những
tiêu
chuẩn
được
thế
giới
công
nhận.
Đó
là
con
đường
duy
nhất
đúng,
không
thể
ì
ạch
mãi.
Theo
bộ
Công
thương,
xuất
khẩu
trái
cây
Việt
Nam
liên
tục
tăng,
từ
827
triệu
USD
(2012)
lên
1
tỉ
USD
(2013)
và
1,477
tỉ
USD
(2014).
Năm
2015,
mục
tiêu
xuất
khẩu
trái
cây
lên
2
tỉ
USD. |
theo
Hoàng
Lan
–
Ngọc
Bích
(báo
Thế
Giới
Tiếp
Thị)