Ngày
31-3,
Báo
SGGP
đăng
bài
“Sản
xuất
và
tiêu
thụ
lúa
gạo
ở
ĐBSCL
-
Vẫn
mạnh
ai
nấy
làm”,
phản
ánh
thực
tế
sản
xuất,
tiêu
thụ
lúa
gạo
đang
bộc
lộ
nhiều
bất
cập,
khó
khăn.
Dù
đóng
góp
rất
lớn
nhưng
đời
sống
người
trồng
lúa
vẫn
nghèo.
Sau
khi
báo
đăng,
chúng
tôi
ghi
nhận
những
ý
kiến
của
các
chuyên
gia,
nhà
khoa
học
về
giải
pháp
cho
ngành
sản
xuất
lúa
gạo
vùng
ĐBSCL
phát
triển
bền
vững.
-
GS-TS
Bùi
Chí
Bửu,
Viện
trưởng
Viện
Khoa
học
Kỹ
thuật
nông
nghiệp
miền
Nam:
Phát
triển
mạnh
công
nghệ
sau
thu
hoạch
Thất
thoát
sau
thu
hoạch
lúa
tại
ĐBSCL
còn
rất
lớn,
chiếm
khoảng
13,7%,
tương
đương
500
triệu
USD.
Số
tiền
này
bằng
với
kim
ngạch
xuất
khẩu
hồ
tiêu
của
Việt
Nam
năm
qua.
Khả
năng
cạnh
tranh
của
nông
sản
Việt
Nam
còn
thấp,
không
phải
chỉ
vì
chất
lượng
giống
mà
còn
do
trình
độ
quản
lý
kém.
Trong
đó,
công
nghệ
sau
thu
hoạch
lâu
nay
đầu
tư
rất
thấp.
Chưa
ở
đâu
như
nước
ta,
sau
hơn
20
năm
nhưng
chỉ
có
nhà
nước
đầu
tư
cho
công
nghệ
sau
thu
hoạch;
trong
khi
ở
các
nước
khác,
doanh
nghiệp
đầu
tư
rất
mạnh.
Hình
ảnh
nông
dân
ĐBSCL
phơi
lúa
trên
sân,
đường
giao
thông…
còn
rất
phổ
biến.
Nông
dân
đang
chờ
doanh
nghiệp
đầu
tư
các
dịch
vụ
sau
thu
hoạch,
tăng
giá
trị
và
để
hạt
gạo
Việt
Nam
có
thương
hiệu
trên
trường
quốc
tế.
Kinh
nghiệm
của
Malaysia,
Nhật
Bản…
cho
thấy:
Nếu
không
có
những
hệ
thống
băng
chuyền
được
đầu
tư
hiện
đại
thì
thất
thoát
sau
thu
hoạch
của
họ
cũng
giống
như
Việt
Nam
hiện
nay.
Nhà
nước
họ
cho
vay
với
lãi
suất
ưu
đãi,
nguồn
vốn
vay
dài
hạn;
doanh
nghiệp
của
họ
được
hình
thành
từ
việc
làm
ăn
hợp
tác
với
nhau
để
bảo
vệ
quyền
lợi
của
nông
dân.
Rõ
ràng,
những
chính
sách
khuyến
khích
các
doanh
nghiệp
có
nguồn
vốn
lớn
và
kinh
nghiệm
sẽ
phải
được
xác
định
để
công
nghệ
sau
thu
hoạch
Việt
Nam
được
nâng
ngang
tầm
với
các
quốc
gia
trong
khu
vực
như
Thái
Lan,
Malaysia,
Trung
Quốc…
-
GS-TS
Võ
Tòng
Xuân:
Công
ty
cổ
phần
nông
nghiệp,
lối
ra
cho
nông
dân
trồng
lúa
Một
lối
ra
cho
nông
dân
trồng
lúa
hiện
nay
chính
là
thực
hiện
mô
hình
công
ty
cổ
phần
nông
nghiệp.
Tổ
chức
liên
kết
nông
dân
sản
xuất
lúa
với
nhau
bằng
việc
xây
dựng
hợp
tác
xã,
tổ
hợp
tác,
tập
đoàn…
theo
phương
thức
hiện
đại,
đạt
mọi
tiêu
chuẩn
thị
trường
cạnh
tranh
để
cung
cấp
cho
doanh
nghiệp
chế
biến
tiêu
thụ
với
giá
trị
tối
ưu.
Thời
kỳ
cạnh
tranh
kinh
tế
thị
trường
cần
phải
có
sản
phẩm:
khối
lượng
lớn,
chất
lượng
cao,
đạt
tiêu
chuẩn
quốc
tế
về
an
toàn
vệ
sinh
thực
phẩm,
giao
hàng
đúng
lúc,
giá
thành
cạnh
tranh.
Chấm
dứt
tình
trạng
doanh
nghiệp
sản
xuất
mà
không
có
vùng
nguyên
liệu
ổn
định
chất
lượng
cao.
Nông
dân
sẽ
được
đào
tạo
kỹ
năng
sản
xuất
theo
tiêu
chuẩn
Viet
GAP
hoặc
Global
GAP
đúng
sản
phẩm
mà
doanh
nghiệp
cần
tiêu
thụ.
Gắn
kết
chuỗi
giá
trị
sản
xuất
nông
sản,
từ
nguyên
liệu
đến
thành
phẩm,
có
thương
hiệu
mạnh
đưa
ra
thị
trường.
Lợi
tức
được
phân
bổ
hợp
lý
cho
các
thành
phần
tham
dự.
Trong
đó
đảm
bảo
nông
dân
luôn
có
cơ
hội
tích
lũy
lợi
tức,
trong
khi
doanh
nghiệp
cũng
đảm
bảo
mức
thu
nhập.
Đặc
biệt,
trong
công
ty
cổ
phần
nông
nghiệp,
nông
dân
có
thể
mua
cổ
phần
của
doanh
nghiệp
bằng
lúa,
đảm
bảo
giá
có
lãi.
Mô
hình
này
sẽ
giúp
nông
dân
gắn
kết
với
doanh
nghiệp
hơn
vì
họ
thực
sự
được
làm
chủ;
không
còn
chuyện
bị
ép
giá.
Phía
doanh
nghiệp
thì
không
phải
chịu
áp
lực
lớn
về
tài
chính,
đảm
bảo
nguồn
nguyên
liệu
lớn,
ổn
định,
có
thương
hiệu…
Trong
khi
tiến
tới
mô
hình
công
ty
cổ
phần
nông
nghiệp,
hiện
nay
có
nhiều
cách
tiếp
cận
tương
đối
hiệu
quả
như:
Liên
kết
của
HTX
nông
nghiệp
Mỹ
Thành
(huyện
Cai
Lậy,
tỉnh
Tiền
Giang)
và
Công
ty
cổ
phần
ADC
để
sản
xuất
và
tiêu
thụ
gạo
Tứ
Quý.
Liên
kết
của
nhiều
cụm
nông
dân
An
Giang
với
Công
ty
Nhật
Bản
Kitoku
sản
xuất
lúa
Nhật
rất
thành
công.
Cánh
đồng
mẫu
lớn
do
Công
ty
CP
Bảo
vệ
thực
vật
An
Giang
tổ
chức
tại
một
số
tỉnh
ĐBSCL…
Nông
dân
trong
các
liên
kết
này
được
tiêu
thụ
đầu
ra
với
thu
nhập
thỏa
đáng,
dù
họ
vẫn
đơn
thuần
là
người
cung
ứng
nguyên
liệu
chứ
chưa
được
chia
lãi
với
công
ty...
-
PGS-TS
Phạm
Văn
Dư,
Cục
phó
Cục
Trồng
trọt:
Sản
xuất
theo
đơn
đặt
hàng
Cách
làm
của
Việt
Nam
từ
sản
xuất
đến
chế
biến,
xuất
khẩu
lúa
gạo
đang
bị
“lỗi
nhịp”,
đi
ngược
lại
với
xu
hướng
sản
xuất
hiện
đại.
Ở
các
nước
tiên
tiến,
doanh
nghiệp
phối
hợp
rất
chặt
chẽ
với
nông
dân.
Chỉ
khi
ký
được
hợp
đồng
cung
ứng
thì
họ
mới
sản
xuất,
chế
biến
và
giao
hàng.
Như
vậy,
họ
biết
rõ
nhu
cầu
cần
loại
gạo
gì,
sản
lượng
bao
nhiêu
và
đặt
hàng
nông
dân
sản
xuất
đúng
theo
yêu
cầu,
nên
giá
rất
cao.
Ở
nước
ta
thì
ngược
lại.
Doanh
nghiệp
gom
lúa
gạo
nguyên
liệu
trước
rồi
mới
tìm
khách
hàng
ký
kết
hợp
đồng,
trong
khi
nông
dân
cứ
sản
xuất
trước,
bán
sau;
gặp
lúc
ế
bán
không
được
thì
chịu.
Khắc
phục
những
hạn
chế
này,
Bộ
Công
thương
và
Hiệp
hội
Lương
thực
Việt
Nam
(VFA)
nên
có
dự
báo
trước
về
thị
trường
tiêu
thụ,
giá
cả,
chủng
loại…
để
định
hướng
cho
nông
dân
sản
xuất.
Do
vậy,
việc
tổ
chức
lại
sản
xuất
lớn;
xây
dựng
cánh
đồng
mẫu
lớn,
sản
xuất
lúa
chất
lượng
cao
theo
đơn
đặt
hàng
của
doanh
nghiệp,
xây
dựng
thương
hiệu
gạo
Việt…
là
hết
sức
cần
thiết
trong
giai
đoạn
hiện
nay.
-
TS
Lê
Văn
Bảnh,
Viện
trưởng
Viện
Lúa
ĐBSCL:
Liên
kết
vùng
và
sự
tham
gia
của
4
nhà
“Sản
xuất
và
tiêu
thụ
lúa
gạo
thông
qua
liên
kết
vùng
và
sự
tham
gia
của
4
nhà”
là
giải
pháp
rất
quan
trọng
trong
thời
điểm
hiện
nay.
Qua
đó,
nhằm
ứng
dụng
các
giải
pháp
khoa
học
công
nghệ
trong
chọn
tạo
giống,
tìm
ra
giống
lúa
cho
năng
suất
cao
ổn
định,
phẩm
chất
gạo
tốt,
kháng
sâu
bệnh,
thích
nghi
biến
đổi
khí
hậu…
Chuyển
giao
kỹ
thuật
sản
xuất
lúa
thích
ứng
cho
hội
nhập
kinh
tế
và
biến
đổi
khí
hậu;
áp
dụng
các
tiến
bộ
khoa
học
và
công
nghệ
cao
trong
sản
xuất
lúa
để
đạt
năng
suất
cao,
phẩm
chất
tốt,
nâng
cao
giá
trị
sản
phẩm
và
lợi
nhuận
cho
nông
dân.
Phát
triển
các
dạng
hình
kinh
tế
hợp
tác
để
thuận
lợi
cho
đầu
tư,
sản
xuất
hàng
hóa
đủ
lớn,
dễ
dàng
tiếp
cận
thị
trường
và
đảm
bảo
đầu
ra.
Trong
đó,
liên
kết
4
nhà
là
khâu
mấu
chốt
được
quan
tâm
hàng
đầu.
Nâng
cao
năng
lực
sản
xuất
và
cạnh
tranh
lúa
gạo
vùng
ĐBSCL
từ
khâu
dịch
vụ
đầu
vào,
tổ
chức
sản
xuất,
bảo
quản
tồn
trữ,
chế
biến
tiêu
thụ.
Chú
trọng
nhất
là
tổ
chức
liên
kết
nông
dân
trong
chuỗi
cung
ứng
lúa
gạo
và
xây
dựng
thương
hiệu.