TS.
Võ
Trí
Thành:
Ngân
hàng
Nhà
nước
chỉ
độc
quyền
hai
cái
Thứ
ba
-
25/06/2013
08:53
NHNN
không
độc
quyền
kinh
doanh
vàng.
Nhà
nước
vẫn
cho
kinh
doanh
vàng,
chỉ
khác
là
điều
kiện
chặt
chẽ
hơn
trước
khi
có
Nghị
định
24.
Nhà
nước
chỉ
độc
quyền
2
cái.
Thứ
nhất
là
độc
quyền
xuất
nhập
khẩu
vàng.
Thứ
hai
là
độc
quyền
thương
hiệu
vàng
-
TS.
Võ
Trí
Thành,
Phó
Viện
trưởng
Viện
nghiên
cứu
và
Quản
lý
Kinh
tế
Trung
ương
cho
biết.
NHNN
muốn
làm
gì?
PV:
Một
trong
những
phương
thức
để
quản
lý
thị
trường
vàng
được
NHNN
sử
dụng
là
tổ
chức
các
phiên
đấu
thầu.
Tuy
nhiên,
nhiều
ý
kiến
cho
rằng
đây
là
một
hình
thức
để
NHNN
kinh
doanh
vàng
thì
đúng
hơn.
Xin
ông
cho
biết
quan
điểm
của
mình
về
vấn
đề
này?
TS.
Võ
Trí
Thành:Đấu
thầu
vàng
được
tổ
chức
trước
mắt
là
nhằm
đáp
ứng
nhu
cầu
của
các
ngân
hàng
thương
mại
phải
tất
toán
vàng.
Đó
là
nhu
cầu
thực.
Còn
về
kỹ
thuật
và
cách
chơi,
NHNN
không
thể
kéo
ngay
lập
tức
giá
vàng
trong
nước
sát
với
giá
vàng
thế
giới.
Sự
bình
ổn
phải
dần
dần
và
NHNN
còn
phải
đảm
bảo
dự
trữ
ngoại
hối.
Còn
ngân
hàng
thương
mại,
trong
bối
cảnh
mà
giá
vàng
thế
giới
đang
giảm
nhanh
thì
họ
biết
câu
chuyện
tất
toán
đấy
và
việc
tổ
chức
đấu
thầu
thường
xuyên
của
NHNN
sẽ
khiến
họ
phải
chọn
thời
điểm
để
mua
vào
sao
cho
phù
hợp.
PV:
Ngay
khi
NHNN
bắt
đầu
can
thiệp
thị
trường
vàng,
các
chuyên
gia
và
dư
luận
đã
lên
tiếng
về
sự
độc
quyền
của
NHNN.
Ông
có
đánh
giá
gì
về
nhận
định
này?
TS.
Võ
Trí
Thành:Đối
với
vấn
đề
này,
tôi
muốn
đề
cập
đến
2
việc.
Thứ
nhất,
quyền
sở
hữu
vàng
của
người
dân
được
đảm
bảo.
Thời
điểm
mua,
bán
lúc
nào
là
của
người
dân.
Quyền
giữ
lại,
cho
đi
cũng
là
của
người
dân,
Nhà
nước
hoàn
toàn
bảo
hộ
quyền
đấy.
Cho
nên
khi
người
dân
mua
bán
tại
một
thời
điểm
rồi
thua
lỗ
mà
đổ
hoàn
toàn
tại
Nhà
nước
thì
chưa
hẳn
đúng,
chỉ
đúng
30%
thôi.
NHNN
không
thể
“bắt”
người
dân
phải
mua
bán,
chỉ
buộc
các
ngân
hàng
thương
mại
phải
tất
toán
theo
chính
sách
thôi.
Thứ
hai,
tôi
muốn
đính
chính
lại
vì
rất
nhiều
người
nghĩ
còn
chưa
đúng
là
NHNN
độc
quyền
kinh
doanh
vàng.
Nghị
định
24
không
nói
như
vậy.
Nhà
nước
vẫn
cho
kinh
doanh
vàng,
chỉ
khác
là
điều
kiện
chặt
chẽ
hơn
trước
khi
có
Nghị
định
24.
Trước
đây
chúng
ta
có
hàng
chục
nghìn
điểm
kinh
doanh
vàng
(miếng),
bây
giờ
là
khoảng
2.000
điểm
kinh
doanh
vàng.
Phải
có
một
số
điều
kiện
và
những
điều
kiện
đó
có
thể
thay
đổi.
Nhưng
nói
Nhà
nước
độc
quyền
kinh
doanh
vàng
là
chưa
đúng.
Nhà
nước
không
độc
quyền
kinh
doanh.
Nếu
độc
quyền
thì
người
dân
chỉ
có
thể
mua
bán
với
Nhà
nước,
hoặc
Nhà
nước
uỷ
quyền
cho
1
đơn
vị
nào
đó.
Nhà
nước
chỉ
độc
quyền
2
cái.
Thứ
nhất
là
độc
quyền
xuất
nhập
khẩu
vàng.
Thứ
hai
là
độc
quyền
thương
hiệu
vàng.
Có
một
sự
nhầm
lẫn
ở
đây.
Đáng
lẽ
ra
nên
dùng
thương
hiệu
SBV
nhưng
chúng
ta
lại
dùng
SJC.
Cái
thương
hiệu
SJC
này
không
còn
là
của
công
ty
SJC
kinh
doanh
vàng
hiện
nay
(nói
thêm,
SJC
chưa
phải
là
vàng
(miếng)
quốc
tế,
cho
nên
NHNN
giả
dụ
có
xuất
vàng
SJC
thì
cũng
chỉ
được
xem
là
vàng
nguyên
liệu).
Ý
đồ
ở
đây
là
vàng
miếng
là
vàng
tiền,
hoặc
rất
gần
tiền;
có
thể
sử
dụng
gần
như
tiền.
Còn
vàng
nữ
trang
là
vàng
khá
xa
tiền.
Khái
niệm
ở
đây
chỉ
là
tương
đối,
không
phải
thật
tách
biệt,
nên
một
số
hội
thảo
vẫn
tranh
cãi
quy
định
thế
nào
là
vàng
miếng?
Về
ý
tưởng,
tuy
không
tách
biệt
rõ,
nhưng
vàng
nữ
trang
cho
tự
do
kinh
doanh,
Nhà
nước
chỉ
kiểm
soát
chất
lượng,
bảo
vệ
người
tiêu
dùng.
Còn
vàng
miếng
là
rất
gần
tiền;
và
vì
vậy,
chỉ
Nhà
nước
mới
sản
xuất,
cho
nên
mới
đặt
vấn
đề
NHNN
độc
quyền
gắn
sản
xuất
với
thương
hiệu
vàng
nói
trên.
“Tiền”
này
được
lưu
thông,
có
điều
kiện
thì
kinh
doanh.
Còn
việc
Nhà
nước
mua
và
bán
vàng
theo
đấu
thầu
cũng
giống
như
Ngân
hàng
Trung
ương
với
tư
cách
là
“người
cho
vay
cuối
cùng”.
NHNN
can
thiệp
thị
trường
là
ở
chỗ
đấy.
Còn
thị
trường
mua
bán
“thoải
mái”.
Khi
thấy
xáo
động
thì
NHNN
có
thể
bán
ra,
mua
vào
theo
con
mắt
đánh
giá
của
mình.
So
sánh
có
thể
khập
khễnh,
song
cũng
như
cung
tiền
đồng,
nhiều
quá
thì
NHNN
thu
về,
ít
quá
thì
NHNN
bơm
ra.
Nhưng
mục
tiêu
của
NHNN
là
muốn
làm
gì?
Về
lâu
dài
là
giảm
mức
độ
“vàng
hoá”
trong
nền
kinh
tế;
nói
vui
là
để
khi
cưới
xin
cô
dâu
không
còn
quá
quan
tâm
đến
vàng.
Để
dần
dần
người
dân
không
coi
vàng
là
tiền
nữa,
chỉ
coi
như
một
tài
sản
tích
trữ,
lúc
cần
thì
bán
lấy
tiền,
như
một
loại
hàng
hoá,
tài
sản
chứ
không
phải
là
tiền.
Để
vàng
tiền
trong
tương
lai
chỉ
còn
là
một
phần
của
dự
trữ
ngoại
hối
của
quốc
gia,
như
tại
nhiều
nước
khác.
Ý
đồ
lâu
dài
của
chúng
ta
là
như
vậy.
PV:
Đấy
là
ý
đồ
trong
tương
lai,
còn
với
thực
tế
đang
diễn
ra,
ông
có
đánh
giá
gì
về
vai
trò
của
NHNN
trong
việc
quản
lý
thị
trường
vàng?
TS.
Võ
Trí
Thành:Mục
tiêu
có
nhiều;
trước
hết
liên
quan
đến
việc
bảo
toàn
dự
trữ
ngoại
hối.
Ví
dụ
như,
chẳng
hạn,
hôm
nay
NHNN
có
30
tỷ
USD
nhưng
ngày
mai
lại
tụt
giảm
nhiều
thì
có
thể
có
vấn
đề.
Lưu
ý
là
khi
NHNN
bán
vàng
(như
qua
đấu
thầu)
thì
sẽ
thu
lại
tiền
đồng.
Tiền
đồng
không
nằm
trong
dự
trữ
ngoại
hối.
Về
mặt
kỹ
thuật,
nếu
NHNN
muốn
giữ
nguyên
dự
trữ
ngoại
hối
thì
phải
can
thiệp
thị
trường
ngoại
hối
để
mua
một
lượng
ngoại
tệ
bù
vào.
Đây
là
mặt
khác
của
câu
chuyện
lãi,
lỗ
thuần
túy.
Vấn
đề
thứ
hai
gắn
với
vàng
là
tỷ
giá
ngoại
hối
và
cán
cân
thanh
toán
quốc
tế.
Vì
gắn
với
vàng
là
câu
chuyện
xuất,
nhập
vàng,
dù
là
vàng
nguyên
liệu,
và
đi
cùng
là
dòng
ngoại
tệ
và
quan
hệ
với
tỷ
giá.
Hơn
nữa,
khi
NHNN
bán
vàng
là
rút
nội
tệ
về,
còn
mua
vàng
là
ném
đồng
nội
tệ
ra.
Điều
này
lại
liên
quan
đến
cung
tiền
(nội
tệ)
và
câu
chuyện
kiểm
soát
cung
tiền,
một
biến
số
có
thể
tác
động
đến
ổn
định
kinh
tế
vĩ
mô,
nhất
là
khi
cung
tiền
có
biến
động
đáng
kể.
Và
NHNN
lại
phải
sử
dụng
những
công
cụ
tiền
tệ
để
bơm
hút
đồng
nội
tệ
để
đảm
bảo
cung
tiền
ấy
gắn
với
mục
tiêu
kinh
tế
vĩ
mô
mình
đặt
ra,
chẳng
hạn
về
lạm
phát…
Thế
nên
câu
chuyện
này
không
đơn
giản.
Đó
không
chỉ
đơn
thuần
là
về
vàng
và
thị
trường
vàng.
Nó
còn
gắn
với
thị
trường
ngoại
hối,
cán
cân
thanh
toán
quốc
tế,
tỷ
giá
và
kiểm
soát
cung
tiền
của
NHNN.
Đừng
chờ
đợi
một
chính
sách
mà
tất
cả
đều
có
lợi
PV:
Theo
phân
tích
của
ông,
NHNN
không
độc
quyền
kinh
doanh
vàng
mà
chỉ
độc
quyền
xuất
nhập
khẩu
vàng
và
thương
hiệu
vàng.
Vậy
sự
độc
quyền
này,
theo
ông,
liệu
có
vì
lợi
ích
của
một
nhóm
người
nào
đó?
TS.
Võ
Trí
Thành:Trong
một
xã
hội
đa
chiều
như
hiện
nay,
đừng
vội
phản
đối
lại
một
suy
luận
có
tính
logic
nào
đó,
và
cái
đó
càng
cho
thấy
vai
trò
minh
bạch
hoá
thông
tin
và
nâng
cao
khả
năng
giải
trình
của
Nhà
nước,
của
NHNN.
Lợi
ích
nhóm
là
một
thực
tế,
dễ
có
ở
đâu
đó.
Và
người
ta
thường
gắn
lợi
ích
nhóm
với
những
dòng
tiền
lớn.
Ngoài
ra,
chúng
ta
cũng
nên
hiểu
rằng
không
có
một
chính
sách
nào
là
hoàn
hảo.
Cái
chính
là
cái
tâm
của
người
làm
chính
sách,
ý
đồ
và
lợi
ích
chung
cho
đất
nước
này.
Còn
nếu
đi
xé
nhỏ
ra
thì
có
thể
có
nhóm
được
lợi
nhiều,
có
người
được
lợi
ít,
thậm
chí
là
có
người
lợi,
có
người
bị
thiệt
hại.
Cho
nên
suy
luận
logic
và
sự
đòi
hỏi
về
minh
bạch,
khả
năng
giải
trình
đều
là
cái
chúng
ta
cần.
Điều
quan
trọng
là
từ
cái
minh
bạch,
giải
trình
ấy,
suy
luận
logic
có
chiều
hướng
sát
với
thực
tế
hơn,
đúng
với
bằng
chứng,
xác
thực
hơn.
Từ
đó
còn
đi
đến
một
điều
rất
quan
trọng
là
tính
quyết
đoán,
dám
làm
dám
chịu
của
những
người
hoạch
định
chính
sách.
Nếu
tôi
nhớ
không
nhầm,
Lincons
đã
từng
nói
một
câu
đại
ý
như
thế
này:
Bạn
đừng
chờ
đợi
một
quyết
định,
một
chính
sách
của
ông
Tổng
thống
mà
tất
cả
đều
có
lợi.
Minh
bạch
không
có
nghĩa
là
công
khai
tất
cả,
nhưng
nó
đàng
hoàng,
đã
giải
thích
cái
gì
thì
phải
đáng
tin,
tốt
nhất
là
có
bằng
chứng
xác
thực.
Thực
tế,
ta
chưa
thật
mạnh
ở
điểm
này.
Một
khi
còn
là
một
điểm
mờ,
thì
người
ta
còn
chỉ
dựa
vào
suy
luận
có
tính
logic.
Tuy
nhiên
đã
là
suy
luận
logic
thì
hãy
suy
luận
theo
nhiều
chiều
chứ
đừng
chỉ
suy
luận
theo
một
chiều.
Ví
dụ
người
ta
cứ
nghĩ
đến
chính
sách
là
gắn
với
lợi
ích
nhóm,
đầu
tư
công
thì
cũng
gắn
với
lợi
ích
nhóm
(tìm
kiếm
siêu
lợi
nhuận).
Chả
nhẽ
công
chức
Việt
xấu
hết
cả
hay
sao(?).
Không
có
gì
không
hợp
lý
cả;
song
chỉ
nhìn
logic
theo
hướng
xấu
thì
xã
hội
cũng
rất
khó
phát
triển.
PV:
Khi
trả
lời
trước
báo
chí,
hay
mới
đây
là
giải
trình
trước
Quốc
hội,
NHNN
luôn
khẳng
định
rằng:
mục
tiêu
là
bình
ổn
thị
trường
vàng
chứ
không
phải
bình
ổn
giá.
Là
một
chuyên
gia
kinh
tế,
ông
có
nhận
xét
gì
về
tuyên
bố
này
của
NHNN?
TS.
Võ
Trí
Thành:Theo
tôi,
câu
trả
lời
của
NHNN
là
chưa
“ổn
thỏa”
khi
nói
rằng:
ổn
định
thị
trường
vàng
không
phải
là
ổn
định
giá
mà
là
ổn
định
thị
trường.
Có
thể
NHNN
nói
với
hai
hàm
ý
đằng
sau.
Ổn
định
thị
trường
ở
đây
có
nghĩa
là
không
có
cú
sốc”
mua
hay
bán.
Không
phải
bỗng
dưng
có
một
ngày
có
đến
3
vạn
người
kéo
đến
cửa
hàng
để
mua
vàng,
rồi
hôm
sau
chẳng
có
ai
đến
mua.
Ổn
định
ở
đây
cũng
có
thể
hiểu
là
giá
vàng
trong
nước
biến
động
không
lớn,
không
quan
tâm
đến
chênh
lệch
với
giá
vàng
thế
giới.
Nhưng
nếu
hiểu
theo
cả
2
nghĩa
đấy
thì
đều
chưa
đầy
đủ.
Lý
do
thứ
nhất:
nếu
chúng
ta
chỉ
muốn
ổn
định
thị
trường
trong
nước
giống
như
việc
nhập
một
chai
rượu,
đặt
thuế
quan
là
30%,
thì
chai
rượu
nhập
khẩu
ấy
bán
ở
trong
nước
luôn
luôn
đắt
hơn
chai
rượu
ở
nước
ngoài
30%,
tạm
chưa
tính
những
chi
phí
khác.
Vậy
nếu
không
thay
đổi
thuế
quan
thì
giá
này
rất
ổn
định,
và
cấu
trúc
thị
trường
Việt
Nam
giả
sử
không
thay
đổi,
cứ
vậy
thôi.
Rất
ổn
định.
Nhưng
nó
sẽ
dẫn
đến
hệ
luỵ
gì?
Buôn
lậu.
Nên
nếu
nói
ổn
định
thị
trường
vàng
mà
chỉ
ổn
định
giá
trong
nước
thì
chưa
đủ.
Chênh
lệch
cao
chắc
chắn
sẽ
dẫn
đến
buôn
lậu,
không
bằng
cách
này
thì
cách
khác,
nhất
là
khi
Nhà
nước
độc
quyền
nhập
khẩu
vàng.
Vậy
ổn
định
ở
đây
phải
đạt
được
2
điều.
Thứ
nhất
là
giá
vàng
trong
nước
phải
gần
sát
với
giá
vàng
thế
giới
để
hạn
chế
buôn
lậu,
một
loại
đầu
cơ.
Thứ
hai,
phải
hạn
chế
đầu
cơ
thì
cũng
cần
phải
làm
2
điều
nữa.
Nhưng
một
trong
2
điều
đó
chúng
ta
không
bao
giờ
làm
được,
vì
giá
vàng
thế
giới
là
do
thế
giới
điều
khiển
nên
ta
bắt
buộc
phải
theo.
Còn
cái
tiếp
theo
là
khoảng
cách
sát
ấy
không
biến
động
lớn.
Ví
dụ
chia
trung
bình
cả
tháng,
chênh
lệch
chỉ
từ
1
-
1,5
triệu.
Nhưng
nếu
có
ngày
chênh
lệch
3
triệu,
có
ngày
chênh
lệch
0
đồng
thì
rất
dễ
khuyến
khích
đầu
cơ.
Nếu
nhìn
vào
tất
cả
thì
sẽ
có
3
câu
hỏi.
Câu
hỏi
thứ
nhất:
đặt
ra
nhiều
mục
tiêu,
gắn
với
nhiều
cái
phức
tạp
như
thế
thì
liệu
NHNN
có
đủ
công
cụ
để
làm
không?
Câu
trả
lời
là
đủ.
Bắn
3,4
con
thỏ
NHNN
có
thể
có
hẳn
5
mũi
tên.
Câu
hỏi
thứ
hai:
NHNN
có
đủ
năng
lực
và
độ
nhạy
bén
để
làm
không?
Đây
thức
sự
vẫn
là
một
câu
hỏi.
Theo
tôi
hiểu,
NHNN
mới
đưa
ra
chính
sách
đóng
trạng
thái
tất
toán
của
các
NHTM
trước
ngày
30/6.
Đây
cũng
có
thể
chỉ
là
thí
điểm,
tập
chơi,
và
NHNN
còn
rất
thận
trọng.
Câu
hỏi
thứ
ba:
có
mâu
thuẫn
gì
về
chính
sách
không?
Câu
hỏi
rất
khó.
Một
mặt
chúng
ta
muốn
giảm
vàng
hoá
(về
dài
hạn),
song
mặt
khác
chúng
ta
lại
(buộc)
đang
thừa
nhận
SJC
là
tiền
vàng.
Về
bản
chất,
chúng
ta
mong
muốn
không
còn
vàng
tiền,
chỉ
còn
vàng
trong
dự
trữ
ngoại
hối,
nhưng
trước
mặt
chúng
ta
lại
thừa
nhận
SJC
chính
là
vàng
miếng,
vàng
tiền.
Cho
nên
cái
quá
độ
này
còn
kéo
dài
bao
lâu
thì
còn
phụ
thuộc
vào
rất
nhiều
chính
sách
nữa
như
ổn
định
vĩ
mô,
lấy
lại
vững
chắc
lòng
tin
vào
tiền
đồng,
các
giải
pháp
ứng
xử
với
thị
trường
vàng
(liên
quan
đến
huy
động
vàng,
thành
lập
sàn
vàng
quốc
gia,
cách
thức
liên
thông
với
thị
trường
quốc
tế,…).
PV:
NHNN
và
nhiều
chuyên
gia
cũng
từng
cho
rằng,
sau
khi
hoàn
thành
tất
toán
vàng
(ngày
30/6),
giá
vàng
sẽ
giảm
và
chênh
lệch
giá
so
với
thế
giới
cũng
sẽ
giảm.
Theo
ông,
liệu
NHNN
có
được
mục
tiêu
đó
hay
không?
TS.
Võ
Trí
Thành:Có
nhiều
biểu
hiện
cho
thấy
là
khoảng
cách
sẽ
giảm
dần
nhưng
chưa
thể
nhanh
được.
Bên
cạnh
đó
rủi
ro
vẫn
còn.
Đó
chính
là
độ
nhạy
bén,
kỹ
thuật
chơi
vì
vàng
là
một
trong
những
loại
hàng
hoá
có
biến
động
lớn
nhất
trong
thế
giới
trong
tất
cả
các
loại
hàng
hoá
cơ
bản.
Tôi
nói
có
nhiều
biểu
hiện
cho
thấy
là
vì:
thứ
nhất,
cầu
vàng
để
tất
toán
của
các
NHTM
cơ
bản
đã
xong.
Thứ
hai
là
việc
“làm
giá”
trên
thị
trường
vàng
giảm.
Cái
này
đã
được
chính
một
số
người
tham
gia
thị
trường
vàng
đề
cập
trên
kênh
truyền
hình
rồi.
Giá
vàng
trong
nước
bị
chi
phối
không
nhỏ
bởi
các
đại
gia;
mà
các
đại
gia
bây
giờ
cũng
đã
thấm
thía
bài
học
đầu
cơ
rồi.
Công
tác
giám
sát
cũng
chặt
chẽ
hơn.
Thứ
ba,
độ
hấp
dẫn
của
vàng
thế
giới
năm
nay
không
cao
(và
theo
tôi
25-30
năm
nữa
độ
hấp
dẫn
của
vàng
sẽ
giảm
đi
trông
thấy).
Xin
chân
thành
cảm
ơn
ông!
Duyên
Duyên
Nguồn
tin:
Đất
Việt