Hợp
tác
và
mất
hút
Những
năm
đầu
thập
niên
90
của
thế
kỷ
trước,
thương
hiệu
kem
đánh
răng
Dạ
Lan
từng
được
coi
là
“ông
lớn”
trong
ngành
hàng
kem
đánh
răng
Việt,
khi
sản
phẩm
thống
lĩnh
toàn
thị
trường
phía
nam,
chinh
phục
thị
trường
phía
bắc
và
đánh
bật
kem
đánh
răng
Trung
Quốc
tại
thị
trường
nội
địa.
Nhưng
sau
5
năm
phát
triển
rực
rỡ,
năm
1994,
đang
ở
đỉnh
cao
với
70%
thị
phần
nội
địa,
ông
Trịnh
Thành
Nhơn,
chủ
thương
hiệu
Dạ
Lan,
quyết
định
bán
thương
hiệu
cho
tập
đoàn
mẹ
của
thương
hiệu
kem
đánh
răng
Colgate
Palmolive
với
giá
3
triệu
USD.
Khi
đó,
có
lẽ
chủ
nhân
của
Dạ
Lan
đặt
ra
kỳ
vọng
tập
đoàn
có
lịch
sử
200
năm
tuổi
này
sẽ
tiếp
tục
phát
triển
tốt
thương
hiệu
Dạ
Lan
do
mình
gầy
dựng.
Tuy
nhiên,
chỉ
trong
vòng
3
tháng
sau
liên
doanh,
kem
đánh
răng
mang
thương
hiệu
Dạ
Lan
dần
dần
vắng
bóng,
nhường
chỗ
cho
kem
đánh
răng
Colgate.
Khoảng
3
năm
sau
liên
doanh,
thương
hiệu
kem
đánh
răng
Dạ
Lan
biến
mất.
Công
ty
với
báo
cáo
lỗ
liên
tục
cũng
đành
bán
lại
cho
đối
tác
ngoại
với
giá
vốn,
khoảng
3,2
triệu
USD.
|
|
Chừng
đó
chiêu
nhưng
vẫn
sa
bẫy
Chuyên
gia
kinh
tế
Bùi
Kiến
Thành
phân
tích:
“Khi
mất
dần
vai
trò
kiểm
soát
trong
các
liên
doanh
với
nước
ngoài,
các
doanh
nghiệp
VN
thường
để
mất
luôn
thương
hiệu
về
tay
đối
tác.
Các
nhà
đầu
tư
ngoại
nhắm
đến
các
thương
hiệu
lớn
của
nội
địa
do
những
lợi
thế
về
danh
tiếng
thương
hiệu,
thị
phần,
hệ
thống
phân
phối
mạnh,
vững,
niềm
tin
yêu
của
người
tiêu
dùng.
Bước
thứ
2
của
mua
bán
sáp
nhập
thường
đưa
hàng
hóa
ngoại
vào
thay
thế.
Điều
này,
khi
tham
gia
mua
bán,
nhiều
doanh
nghiệp
nội,
vì
cái
lợi
trước
mắt,
thường
không
nhận
ra.
Các
thương
hiệu
Việt
biến
mất
sau
liên
doanh
cũng
chỉ
có
chừng
đó
chiêu,
chừng
đó
công
thức
nhưng
ta
vẫn
sa
bẫy...”.
|
|
|
Nhớ
lại
những
cay
đắng
trải
qua
với
đứa
con
tinh
thần
của
mình,
ông
Nhơn
chia
sẻ:
“Nếu
ngày
đó
tôi
vững
vàng
hơn,
kinh
nghiệm
hơn
thì
không
đến
cớ
sự
như
hôm
nay.
Quyết
định
liên
doanh
với
Colgate
là
sai
lầm
lớn
nhất
đời
kinh
doanh
của
tôi”.
Tương
tự
như
Dạ
Lan,
thương
hiệu
nước
ngọt
Tribeco
từng
nổi
đình
đám
trên
thương
trường
20
năm,
cho
đến
khi
quyết
định
liên
doanh
với
Uni
-
President
VN
(Đài
Loan)
vào
năm
2008
và
rồi
tuyên
bố
giải
thể
4
năm
sau
đó
để
chấm
dứt
lỗ
lã
triền
miên.
Kịch
bản
của
Tribeco
không
khác
Dạ
Lan
là
mấy,
công
thức
chung
là
liên
doanh,
rồi
liên
tục
đầu
tư
mở
rộng,
lỗ
lũy
kế
lên
quá
con
số
300
tỉ
đồng,
gồng
mình
không
nổi,
buộc
bán
lại
công
ty
để
chấm
dứt
lỗ
lã.
Hay
như
thương
hiệu
điện
tử
Viettronic,
từng
là
niềm
tự
hào
của
người
tiêu
dùng
Việt
trong
thời
kỳ
bao
cấp
và
sau
đổi
mới.
Trước
cơn
lốc
ồ
ạt
của
nhiều
thương
hiệu
điện
tử
nổi
tiếng
của
Nhật,
Hàn
Quốc,
Viettronic
quyết
định
liên
doanh
với
Sony,
Panasonic,
Toshiba...
cũng
với
niềm
tin
ngây
thơ
“cùng
lớn
mạnh”.
Thế
nhưng,
trước
những
cam
kết
hợp
tác
lỏng
lẻo,
các
đối
tác
ngoại
như
Sony
nhanh
chóng
thuê
lại
dây
chuyền
lắp
ráp
ti
vi
của
Viettronic
để
nhập
linh
kiện
về
lắp
ráp
bán
tại
thị
trường
nội
địa.
Sau
đó,
đối
tác
lẳng
lặng
rút
lui
sau
khi
đã
gầy
dựng
thành
công
hệ
thống
phân
phối,
bảo
hành
vững
chắc
và
thương
hiệu
mạnh
tại
thị
trường
Việt.
Liên
doanh
này
cũng
chấm
dứt
tham
vọng
xây
dựng
công
nghiệp
điện
tử,
thương
hiệu
điện
tử
của
người
Việt.
Cẩn
trọng
bẫy
mới
Điều
đáng
nói
là
những
bài
học
"xương
máu"
vẫn
tiếp
tục
diễn
ra
sau
khi
VN
gia
nhập
Tổ
chức
Thương
mại
thế
giới
(WTO)
và
nhiều
thương
hiệu
Việt
lại
tiếp
tục
“đội
nón
ra
đi”.
Như
trường
hợp
của
bia
Huda
Huế.
Thời
điểm
hoàng
kim,
bia
Huda
Huế
từng
chiếm
đến
98%
thị
phần
tại
Thừa
Thiên-Huế,
95%
thị
phần
tại
Quảng
Trị,
65%
ở
Quảng
Bình.
Đang
làm
mưa
làm
gió
tại
thị
trường
miền
Trung,
đùng
một
cái,
năm
2011,
tỉnh
Thừa
Thiên-Huế
tuyên
bố
bán
hết
50%
cổ
phần
mà
tỉnh
này
đang
nắm
giữ
trong
liên
doanh
bia
Huda
cho
đối
tác
ngoại
Carlsberg
với
giá
93
triệu
USD.
Lý
do
được
lãnh
đạo
tỉnh
này
lý
giải
đến
năm
2015,
phải
chiếm
15%
thị
phần
bia
cả
nước
(tại
thời
điểm
bán
Huda
đang
chiếm
8%
thị
phần
cả
nước),
nếu
không
bia
Huế
sẽ
chết.
Tuy
nhiên,
trước
nhiều
nhãn
hàng
bia
nổi
tiếng
tại
thị
trường
miền
Trung
như
Bia
Sài
Gòn,
Heineken,
Tiger
và
mới
đây
là
Sapporo
của
Nhật,
tham
vọng
mở
rộng
thị
phần
Huda
đã
chựng
lại.
Và
sẽ
là
áp
lực
không
nhỏ
khi
chính
người
tiêu
dùng
khu
vực
miền
Trung
đang
xếp
thương
hiệu
này
là…
bia
ngoại.
Sau
Huda,
thị
trường
bia
nội
địa
từng
có
những
đồn
đoán
tập
đoàn
bia
đến
từ
Đan
Mạch
này
sẽ
sớm
thâu
tóm
thương
hiệu
bia
Habeco
phía
bắc.
Hiện
Carlsberg
nắm
trên
17%
vốn
điều
lệ
của
Habeco
và
đã
được
thông
qua
đề
xuất
tăng
phần
vốn
nắm
giữ
lên
30%.
Trước
đó,
năm
1993,
Carlsberg
từng
liên
doanh
với
Công
ty
bia
Việt
Hà
cũng
với
tham
vọng
sẽ
đẩy
mạnh
thương
hiệu
bia
nội
địa
này
lên.
Thế
nhưng,
hơn
20
năm
qua,
bia
Việt
Hà
vẫn
“ì
ạch”
và
chiếm
thị
phần
khiêm
tốn
gần
như
biến
mất
khỏi
thị
trường
nội
địa.
Kế
đến,
Carlsberg
lại
tiếp
tục
liên
doanh
với
Nhà
máy
bia
Đông
Nam
Á
(nhãn
bia
Halida),
sở
hữu
60%
cổ
phần.
Tuy
nhiên,
cả
bia
Halida
đến
nay
cũng
chưa
một
lần
lọt
vào
top
10
tiêu
thụ
của
các
nhãn
hàng
bia
nội
địa
như
kỳ
vọng
ban
đầu.
Đó
cũng
là
lý
do,
nhiều
chuyên
gia
lo
ngại
trước
áp
lực
cổ
phần
hóa
các
doanh
nghiệp
nhà
nước
lớn,
trước
áp
lực
tài
chính,
áp
lực
cạnh
tranh
trong
hội
nhập...
các
thương
hiệu
Việt
chọn
con
đường
liên
doanh,
liên
kết
nếu
không
cẩn
trọng
có
thể
sẽ
bị
thâu
tóm.
Trước
thông
tin
Sabeco
sẽ
bán
bớt
53%
cổ
phần,
giảm
sở
hữu
nhà
nước
từ
89%
xuống
36%,
một
chuyên
gia
về
mua
bán
và
sáp
nhập
(M&A)
nhận
xét:
Lý
do
đưa
ra
để
bán
của
Sabeco
có
vẻ
na
ná
giống
Huda.
Tuy
nhiên,
việc
bán
một
lần
tỷ
lệ
vốn
sở
hữu
lớn
như
vậy
rất
khó
cho
Sabeco
giữ
thương
hiệu
bia
Việt
như
mục
tiêu
đề
ra
ban
đầu.
Theo
chuyên
gia
kinh
tế
Bùi
Kiến
Thành,
bẫy
mới
là
vẫn
choáng
ngợp
trước
giá
trị
tính
bằng
tiền,
đánh
giá
quá
cao
đối
tác
ngoại
và
bán
lượng
cổ
phần
lớn,
bán
đổ
bán
tháo
khi
chưa
được
tư
vấn
thấu
đáo...
Vị
chuyên
gia
M&A
cũng
cho
rằng,
đa
số
doanh
nghiệp
nội
chỉ
quan
tâm
đến
nguồn
vốn
của
đối
tác
có
mạnh
không,
khi
nào
họ
rót
tiền
về
mà
chưa
quan
tâm
nhiều
đến
những
yếu
tố
có
lợi
khác
như
hấp
thu
công
nghệ,
hợp
tác
chặt
chẽ
theo
mô
hình
cùng
chiến
thắng.
“Đừng
để
lọt
bẫy
thâu
tóm
cũ
nếu
tiếp
tục
bán
lượng
lớn
cổ
phần
cho
đối
tác
ngoại”,
vị
này
khuyến
cáo.