Chi phí đầu vào giảm, giá bán ra gần như không đổi
Những tháng gần đây, giá nguyên liệu đầu vào TACN liên tục giảm. Từ tháng 5-2014 đến nay, theo ước tính của các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu TACN, giá bắp, khô đậu nành, sắn lát... đều giảm khoảng 30%.
Tín
hiệu
trên
đã
khiến
nhiều
hộ
nông
dân
chăn
nuôi
và
nuôi
trồng
thủy
sản
khấp
khởi
vui
mừng
vì
nghĩ
sẽ
được
mua
TACN
giá
rẻ,
giảm
giá
thành
sản
phẩm.
Nhưng
thực
tế
không
như
vậy.
Cầm
quyển
sổ
ghi
chép
trong
tay,
ông
Nguyễn
Trọng
Long,
Chủ
nhiệm
Hợp
tác
xã
Chăn
nuôi
Hoàng
Long,
xã
Tân
Ước,
huyện
Thanh
Oai,
Hà
Nội,
nơi
nuôi
tới
hơn
4.000
con
heo
các
loại
và
tiêu
thụ
mỗi
tháng
100
tấn
TACN
cho
hay,
nếu
như
đầu
tháng
1-2014,
loại
cám
1052,
dùng
cho
heo
nái
đẻ
là
279.000
đồng/bao
thì
đến
tháng
12-2014
là
272.000/bao,
(tức
giảm
7.000
đồng/bao)
nhưng
đến
nay
lại
tăng
lên
280.0000
đồng/bao.
“Dẫn
chứng
như
vậy
là
để
thấy
giá
TACN
chúng
tôi
mua
của
Cargill
(công
ty
sản
xuất
TACN
của
Mỹ)
không
hề
giảm
mà
thậm
chí
còn
tăng
nhẹ”,
ông
Long
nói.
Đó
là
giá
ông
mua
từ
nhà
máy,
chưa
có
công
vận
chuyển
và
không
hề
qua
bất
kỳ
cấp
đại
lý
nào
cả.
Trong
khi
giá
TACN
không
giảm
thì
giá
thịt
lại
giảm
sâu
kể
từ
Tết
Nguyên
đán
tới
nay,
hiện
chỉ
còn
từ
35.000-40.000
đồng/ki
lô
gam
trong
khi
vào
cuối
năm
ngoái
giá
là
52.000
đồng/ki
lô
gam.
“Với
mức
giá
này,
nông
dân
nuôi
không
khéo
chỉ
có
lỗ”,
ông
Long
nói.
“Nếu Nhà nước không có chính sách hỗ trợ chắc tôi cũng bán nhà máy cho doanh nghiệp FDI vì một mình tôi không thể đơn độc cạnh tranh với 99% doanh nghiệp FDI còn lại”. Ông Nguyễn Trọng Huy, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Thức ăn thủy sản Tomking |
Ngành
thủy
sản
cũng
không
sáng
sủa
hơn.
Ông
Nguyễn
Ngọc
Hải,
Chủ
nhiệm
Hợp
tác
xã
Nuôi
cá
tra
Thới
An,
quận
Ô
Môn,
thành
phố
Cần
Thơ,
cho
hay
từ
năm
ngoái
tới
nay,
giá
thức
ăn
thủy
sản
giảm
không
nhiều,
từ
12.700
đồng/ki
lô
gam
xuống
còn
12.000
đồng/ki
lô
gam.
“Mức
giảm
này
thấp
hơn
rất
nhiều
so
với
kỳ
vọng
của
chúng
tôi”,
ông
Hải
nói.
Trong
khi
giá
TACN
giảm
mang
tính
hình
thức
thì
nông
dân
vùng
đồng
bằng
sông
Cửu
Long
lại
đang
phải
chống
chọi
với
sự
suy
giảm
mạnh
của
ngành
thủy
sản.
“Xuất
khẩu
khó
khăn
khiến
giá
cá
tra
nguyên
liệu
và
tôm
giảm
thê
thảm,
bên
cạnh
đó,
dịch
bệnh
đốm
trắng
trên
tôm
đang
khiến
gần
70%
hộ
dân
ở
khu
vực
đồng
bằng
sông
Cửu
Long
treo
ao.
Nông
dân
khổ
vô
cùng”,
ông
Hải
than.
Ông
Nguyễn
Hữu
Dũng,
Phó
chủ
tịch
Hiệp
hội
Chế
biến
và
Xuất
khẩu
thủy
sản
Việt
Nam
(VASEP),
cho
hay
hiện
nay
đa
phần
các
đơn
vị
sản
xuất
thức
ăn
thủy
sản
là
các
doanh
nghiệp
FDI.
Đối
với
sản
xuất
thức
ăn
cho
tôm
thì
gần
như
là
doanh
nghiệp
FDI.
Đợt
vừa
rồi,
mặc
dù
đầu
vào
giảm
nhưng
xu
hướng
giảm
giá
thức
ăn
thủy
sản
là
không
nhiều.
Doanh
nghiệp
FDI
trong
ngành
TACN
sống
khỏe
Trái
ngược
với
cảnh
lên
xuống
thất
thường
của
giá
sản
phẩm
chăn
nuôi
và
thủy
sản
thì
các
doanh
nghiệp
FDI
trong
ngành
TACN
vẫn...
sống
khỏe.
Phó
tổng
giám
đốc
một
công
ty
sản
xuất
TACN
của
Úc
cho
hay,
ông
cảm
thấy
rất
thoải
mái
với
điều
kiện
kinh
doanh
tại
Việt
Nam
hiện
nay.
Mặc
dù
không
phải
là
công
ty
quá
lớn
trong
ngành
này
nhưng
năm
2014,
công
ty
cũng
đạt
1.560
tỉ
đồng
lợi
nhuận,
tăng
30%
so
với
năm
ngoái.
Năm
nay,
công
ty
đã
tăng
công
suất
lên
khoảng
20%
để
đáp
ứng
nhu
cầu
TACN
trong
nước.
Thực
tế,
trong
vòng
khoảng
15
năm
qua,
đã
có
rất
nhiều
các
doanh
nghiệp,
tập
đoàn
lớn
trên
thế
giới
tham
gia
ngành
này
như
các
doanh
nghiệp
FDI
đến
từ
Thái
Lan
(Công
ty
CP),
Đài
Loan
(Grobest,
Uni
President,
Dinh
dưỡng
Á
Châu...),
Trung
Quốc
(Thăng
Long,
Tongwei,
Hoa
Chen...),
Hàn
Quốc
(CJ
Master...),
Pháp
(Tomboy...),
Mỹ
(Cargill...).
Các
doanh
nghiệp
này
ngày
càng
lớn
mạnh
và
chiếm
lĩnh
thị
trường
trong
nước.
Riêng
đối
với
thức
ăn
chăn
nuôi
cho
tôm,
ba
doanh
nghiệp
FDI
đang
chiếm
tới
80%
thị
phần
là
là
Grobest,
Uni
President,
CP.
Ông
Nguyễn
Trọng
Huy,
Chủ
tịch
Hội
đồng
quản
trị
Công
ty
cổ
phần
Thức
ăn
thủy
sản
Tomking,
một
trong
những
doanh
nghiệp
Việt
Nam
hiếm
hoi
còn
lại
trong
ngành
này
cho
hay,
sở
dĩ
chỉ
trong
thời
gian
ngắn
mà
doanh
nghiệp
FDI
chiếm
lĩnh
thị
trường
TACN,
gạt
các
doanh
nghiệp
sản
xuất
trong
nước
sang
một
bên
là
vì
họ
có
kinh
nghiệm
và
thương
hiệu
trong
lĩnh
vực
này
trên
40
năm.
Với
sản
lượng
lớn,
họ
còn
có
mối
quan
hệ
và
nguồn
nguyên
liệu
đầu
vào
rất
tốt,
đặc
biệt
với
hai
nguồn
nguyên
liệu
chính
là
bột
cá
(nguồn
gốc
từ
Pêru,
Chi
Lê...),
đậu
nành
(Mỹ).
Nhưng
yếu
tố
quan
trọng
nhất,
theo
ông
Huy,
là
do
vốn
của
của
các
doanh
nghiệp
này
rất
dồi
dào,
với
chi
phí
lãi
vay
thấp
từ
các
ngân
hàng
nước
ngoài.
Doanh
nghiệp
Việt
Nam
không
đủ
vốn
đầu
tư
cho
đại
lý
và
người
dân
nên
không
phát
triển
được
thị
phần,
không
thể
tăng
giá
khi
có
biến
động
chi
phí
đầu
vào.
Theo
các
doanh
nghiệp,
TACN
chiếm
tới
70%
tổng
chi
phí
cho
mỗi
chu
kỳ
nuôi
tôm.
Trong
khi
đó,
cứ
đến
lúc
tôm
tăng
trưởng
mạnh
là
các
doanh
nghiệp
FDI
lại
đồng
loạt
tăng
giá,
nông
dân
vẫn
phải
chấp
nhận
mua
dẫn
đến
giá
thành
sản
xuất
tăng.
Nếu
thuận
mùa,
giá
bán
cao
thì
mới
có
lãi
còn
nghịch
mùa,
giá
thấp
thì
cầm
chắc
lỗ,
trong
khi
các
doanh
nghiệp
FDI
đã
lấy
lợi
nhuận
trước
nên
không
bao
giờ
lỗ
cả.
Theo
tính
toán
hiện
nay,
giá
TACN
của
Việt
Nam
đã
cao
hơn
Ấn
Độ
2
đô
la
Mỹ/ki
lô
gam.
Quản
lý
có
quá
lỏng
lẻo?
Theo
ông
Dũng,
doanh
nghiệp
FDI
làm
mưa
làm
gió
trên
thị
trường
TACN
thời
gian
qua
là
do
công
tác
quản
lý
nhà
nước
quá
lỏng
lẻo.
Ví
dụ
như
TACN
chiếm
tới
70%
giá
trị
cá
tra
nhưng
trong
Nghị
định
36
về
quản
lý
cá
tra
lại
không
có
một
chữ
nào
về
TACN.
Còn
ông
Huy
cho
rằng,
hiện
các
doanh
nghiệp
FDI
được
hưởng
quá
nhiều
ưu
đãi
về
thuê
đất
đai,
đặc
biệt
là
ưu
đãi
thuế
thu
nhập
doanh
nghiệp,
nên
khi
hết
thời
gian
ưu
đãi
thuế
thì
họ
lại
lập
công
ty
mới
để
không
phải
nộp
thuế.
Ở
một
khía
cạnh
khác,
ông
Võ
Hùng
Dũng,
Giám
đốc
Phòng
Thương
mại
và
Công
nghiệp
Việt
Nam
(VCCI)
Cần
Thơ
nhận
xét:
trước
kia
chúng
ta
quan
niệm
thu
hút
FDI
để
sản
xuất
hàng
thay
thế
cho
nhập
khẩu
hoặc
hàng
xuất
khẩu
ra
nước
ngoài
nên
có
những
chính
sách
để
thu
hút
nhưng
sau
thời
gian
dài
phát
triển,
các
doanh
nghiệp
FDI
lại
khai
thác
thị
trường
nội
địa,
cạnh
tranh
trực
tiếp
với
doanh
nghiệp
trong
nước.
Theo
các
chuyên
gia,
việc
chống
chuyển
giá
của
chúng
ta
không
thành
công.
Doanh
nghiệp
FDI
có
thể
mua
hàng
ở
nước
ngoài
giá
rẻ
nhưng
kê
khai
cao
hơn
để
tránh
thuế
thu
nhập
doanh
nghiệp.
Trong
khi
các
doanh
nghiệp
trong
nước
thường
bị
phạt
vì
những
lỗi
nhỏ
thì
các
doanh
nghiệp
FDI
rất
ít
bị
kiểm
tra,
kiểm
soát
do
sự
e
dè
của
cơ
quan
quản
lý
trước
sự
hùng
mạnh
của
các
doanh
nghiệp
này.
Vì
vậy,
theo
ông
Dũng,
việc
cần
làm
ngay
là
tăng
tính
minh
bạch
của
doanh
nghiệp
FDI,
tăng
cường
kiểm
tra
việc
trốn
thuế,
chuyển
giá.
“Chỉ
riêng
việc
đó
cũng
giảm
được
bất
bình
đẳng
giữa
doanh
nghiệp
trong
nước
và
nước
ngoài”,
ông
Dũng
nói.
Bên cạnh đó, cần giảm mặt bằng lãi suất xuống thêm nữa. Hiện nay lạm phát chỉ 2-3% trong khi mặt bằng lãi suất tới 7-8%, có khi tới 10% là một gánh nặng lớn với doanh nghiệp.
Nguồn tin: TBKTSG Online
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Đang truy cập : 206
•Máy chủ tìm kiếm : 9
•Khách viếng thăm : 197
Hôm nay : 37213
Tháng hiện tại : 869670
Tổng lượt truy cập : 44237355