Hội
thảo
“Hiệp
định
thương
mại
tự
do
ASEAN
-
Trung
Quốc
(ACFTA)
sau
2
năm
thực
thi
-
Cơ
hội
và
thách
thức
cho
doanh
nghiệp
Việt
Nam”
do
Câu
lạc
bộ
Doanh
nghiệp
Dẫn
đầu
(LBC)
tổ
chức
chiều
10.5
tại
TP.HCM
đã
ghi
nhận
nhiều
ý
kiến
của
các
Tham
tán
thương
mại,
lãnh
sự
của
các
nước
cũng
như
của
doanh
nghiệp
Việt
Nam
xung
quanh
ảnh
hưởng
của
ACFTA
đối
với
tình
hình
giao
thương
giữa
Trung
Quốc
và
ASEAN
trong
thời
gian
qua.
Chúng
tôi
xin
trích
đăng
một
số
ý
kiến
tiêu
biểu
được
ghi
nhận
trong
buổi
Hội
thảo.
Ông
Vi
Tích
Thần,
Tham
tán
thương
mại
Tổng
lãnh
sự
quán
Trung
Quốc
tại
TPHCM:
Khi
khu
tự
do
mậu
dịch
giữa
ASEAN
và
Trung
Quốc
được
thực
hiện
thì
thuế
quan
thương
mại
sẽ
giảm
chỉ
còn
0.1%,
là
cơ
hội
để
các
nước
giao
thương
tốt
hơn,
từ
7.96
tỷ
USD
(1991)
tăng
lên,
267
tỷ
USD
(2011)
–
tăng
45
lần,
bình
quân
tăng
hơn
20%.
Trước
năm
2011,
Trung
Quốchầu
như
chỉ
xuất
siêu
sang
các
nước
ASEAN.
Từ
năm
2011
đến
nay,
Trung
Quốc
đã
nhập
siêu
hơn
22
tỷ
USD.
Trung
Quốc
là
thị
trường
rất
rộng
lớn.
Các
sản
phẩm
vào
Trung
Quốc
đều
tiêu
thụ
được,
miễn
là
các
bạn
tìm
hiểu
và
nắm
bắt
được
tâm
lý
người
tiêu
dùng
Trung
Quốc.
Trong
thời
gian
qua,
doanh
nghiệp
Việt
Nam
còn
thụ
động.
Họ
nghĩ
chỉ
khi
doanh
nghiệp
Trung
Quốc
qua
tận
nơi
mua
hàng
thì
mới
bán
được
hàng.
Doanh
nghiệp Việt
Nam kêu
ca
rằng
doanh
nghiệp
Trung
Quốc
đến
tận
nơi
thu
mua
nguyên
liệu
làm
họ
thiếu
nguồn
đầu
vào
chế
biến.
Đây
là
một
nhận
thức
không
chính
xác.
Nếu
doanh
nghiệp
Trung
Quốc
không
mua
thì
doanh
nghiệp
Việt
Nam lại
ép
giá,
làm
thiệt
hại
cho
người
sản
xuất.
Vì
đây
là
nền
kinh
tế
thị
trường
toàn
cầu
nên
chúng
tôi
thường
sử
dụng
các
công
cụ
thị
trường
theo
cán
cân
cung
–
cầu.
Tôi
nghĩ
chúng
ta
không
nên
dùng
các
công
cụ
hành
chính
để
bóp
chết
thị
trường.
Năm
2011,
Trung
Quốc
xuất
khẩu
sang
Việt
Nam chỉ
tăng
25.9%.
Trong
02
tháng
đầu
năm
2012,
Trung
Quốc
xuất
khẩu
sang
Việt
Nam tăng
12%,
ở
chiều
ngược
lại
tăng
đến
50%.
Điều
này
thể
hiện
sự
ưa
chuộng
và
khuyến
khích
nhập
khẩu
hàng
và
nguyên
vật
liệu
để
đáp
ứng
nhu
cầu
trong
nước.
Tuy
tốc
độ
tăng
rất
nhanh
nhưng
sản
lượng
không
tương
xứng
với
tiềm
năng.
Như
sản
phẩm
trái
cây
nhiệt
đới,
ở
Trung
Quốc
rất
thiếu
và
người
tiêu
dùng
nội
địa
đều
biết
sản
phẩm
Việt
Nam tốt.
Tìm
trong
siêu
thị
thì
ngoài
thanh
long,
xoài,
nhãn
thì
những
sản
phẩm
còn
lại
rất
hiếm.
Về
thủy,
hải
sản,
chỉ
cần
thương
nhân
Trung
Quốc
sang
Việt
Nam một lần
đã
biết
sản
phẩm
Việt
Nam rất
tốt,
chất
lượng
cao.
Nhưng
trong
thị
trường
Trung
Quốc,
dù
có
bán
thì
cũng
không
được
biết
đến
như
hàng Việt
Nam.
Việt
Nam hiện
nay
chỉ
để
ý
phát
triển
qua
các
thị
trường
phương
Tây.
Trong
khi
đó,
quy
mô
thị
trường
Trung
Quốc
lớn
hơn
nhiều,
khung
tiêu
chuẩn
kiểm
dịch
cũng
thấp
hơn,
ít
quy
tắc
hơn.
Nếu
doanh
nghiệp Việt
Nam cố
gắng
thì
đều
có
thể
đem
bất
cứ
sản
phẩm
nào
sang
Trung
Quốc
tiêu
thụ.
Doanh
nghiệp Việt
Nam đã
có
nhiều
đơn
vị
làm
ăn
tại
Trung
Quốc
lâu
năm
nhưng
họ
vẫn
chưa
mạnh
dạn
hợp
tác
với
doanh
nghiệp
Trung
Quốc,
đầu
tư
vào
tiếp
thị
cũng
chưa
nhiều”.
Ông
Dalton
Sembiring,
Quyền
Tổng
lãnh
sự
Indonesia
tại
TP.HCM:
Theo
tôi
đánh
giá,
về
lâu
dài,
ACFTA
sẽ
đem
lại
các
kết
quả
khả
quan
hơn
là
tiêu
cực
như
ta
lo
sợ.
Đối
với
doanh
nghiệp,
chính
quyền
cần
phải
có
kế
hoạch
rõ
ràng
để
hỗ
trợ.
Việc
hỗ
trợ
các
doanh
nghiệp
được
áp
dụng
dưới
hình
thức
miễn
thuế
xuất
nhập
khẩu,
miễn
chi
phí
nghiên
cứu,
nhập
khẩu
máy
móc
cho
các
doanh
nghiệp
sản
xuất.
Đối
với Việt
Nam,
quan
hệ
giao
thương
song
phương
vẫn
đang
tang
rất
đều
đặn
qua
từng
năm.
Trong
thông
số
đầu
tư
vào
Việt
Nam,
Indo
đứng
thứ
6
trong
các
nước
ASEAN,
thứ
29
trong
danh
sách
toàn
cầu.
Trong
khi
đó, Việt
Nam đầu
tư
vào
Indo
hầu
như
rất
nhỏ,
chỉ
có
06
dự
án
với
tổng
vốn
đầu
tư
là
67
triệu
USD.
Lãnh
đạo
hai
nước
đã
đồng
ý
sẽ
thúc
đẩy
giao
thương
song
phương
đạt
5
tỷ
USD
vào
năm
2015
(2011).
Sau
đó
là
đạt
10
tỷ
sau
cuộc
gặp
vào
năm
2012.
Ông
Shazryll
bin
Zahiran,
Tổng
lãnh
sự
Malaysia
tại
TP.HCM:
Bản
thân
tôi
thấy
rằng
trong
việc
giao
thương
giữa
cộng
đồng
ASEAN
có
rất
nhiều
thách
thức.
Malaysia
là
một
trong
những
đất
nước
có
tốc
độ
phát
triển
nhanh
nhất
trong
cộng
đồng
ASEAN.
Là
một
thị
trường
đa
sắc
tộc,
đa
tôn
giáo,
Malaysia
là
thị
trường
đầy
tiềm
năng
dành
cho
nhiều
loại
sản
phẩm.
Điều
quan
trọng
là
một
quốc
gia
cần
rất
nhiều
quyết
tâm
và
doanh
nghiệp
cùng
người
dân
đều
là
đối
tác.
Nếu
không
có
mối
quan
hệ
chặt
chẽ
giữa
xã
hội
và
doanh
nghiệp
thì
sẽ
khó
mà
phát
triển
bền
vững
một
nền
kinh
tế
quốc
tế.
Đối
với
các
doanh
nghiệp,
chúng
ta
phải
nghiên
cứu
rất
nhiều
về
thị
trường
quốc
tế,
tìm
hiểu
về
những
luật
lệ
bảo
vệ
cùng
các
điểm
khác
biệt
trong
nhiều
mặt,
văn
hóa,
kinh
tế,
xã
hội…
Nếu
một
công
ty
kinh
doanh
ở
một
phân
khúc
đặc
biệt
mà
không
nghiên
cứu
kỹ,
không
có
được
sự
tư
vấn
rõ
ràng
thì
sẽ
rất
dễ
thất
bại.
Hiện
nay,
Malaysia
đang
cung
cấp
hỗ
trợ
cho
các
doanh
nghiệp
thuộc
hai
nhóm
ngành:
Các
ngành
nhu
yếu
như
y
tế,
giáo
dục,
phát
triển
công
ích…
nhóm
thứ
hai
là
các
nhóm
giá
trị
gia
tăng
như
du
lịch,
xây
dựng,
công
nghiệp,
công
nghệ
cao…
Vấn
đề
mà
chúng
tôi
muốn
chia
sẻ
với
doanh
nghiệp
Việt
Nam
đó
là
phải
biết
mình
biết
ta
để
có
thể
thúc
đẩy
việc
mở
cửa
đầu
tư.
Ông
Nguyễn
Lâm
Viên,
Tổng
giám
đốc
Công
ty
cổ
phần
Vinamit:
Hiện
nay,
doanh
nghiệp
Việt
Nam
chủ
yếu
thực
hiện
xuất
nhập
khẩu
qua
đường
biên
mậu,
và
luôn
có
một
“mối
quen”
làm
phân
phối
cho
mình.
Doanh
số
không
hề
nhỏ,
từ
vài
trăm
tỉ
đến
vài
ngàn
tỉ.
Từ
cao
su,
nông
sản
trước
giờ
đều
vậy.
Chỉ
có
mới
đây,
gạo
mới
được
xuất
chính
ngạch.
Vì
vậy,
doanh
nghiệp
Việt
Nam
không
đụng
đến
những
thị
trường
lớn
như
MT
(modern
trade
–
chiếm
60%
sức
mua
sắm).
Cơ
hội
thứ
hai
mà
chúng
ta
cần
phải
quan
tâm:
Người
tiêu
dùng
ở
Trung
Quốc
rất
chuộng
ngoại.
Các
hệ
thống
siêu
thị
tại
Trung
Quốc
đang
mở
rộng
diện
tích
kệ
cho
hàng
nhập
khẩu
ngày
càng
nhiều
hơn.
Như
vậy,
doanh
nghiệp
Việt
Nam
phải
thay
đổi
quan
điểm
để
tiếp
cận.
Khi
thương
nhân
Trung
Quốc
qua
Việt
Nam và
mua
hết
nông
sản
Việt
Nam thì
người
nông
dân
Việt
Nam có
xu
hướng
bảo
vệ
và
co
cụm.
Nhưng
theo
quan
điểm
tiến
bộ,
chúng
ta
phải
mừng
vì
hàng
bán
được.
Nếu
chúng
ta
nhìn
nhận
đúng,
về
thị
trường
ASEAN+1
-
một
miếng
bánh
lớn
hơn
so
với
thị
trường
VN
rất
nhiều
thì
cái
nhìn
mới
đúng.
Đối
với
Vinamit,
trong
mùa
bình
thường
mua
3
-
4000
đồng/kg
mít,
nhưng
khi
cao
điểm
thì
giá
gấp
nhiều
lần.
Thương
nhân
Trung
Quốc
rất
thích
mua
mít
Việt
Nam vì
thị
trường
họ
thiếu
(đem
về
Trung
Quốc
họ
bán
được
hơn
100,000
đồng/kg).
Như
vậy
tại
sao
chúng
ta
không
trực
tiếp
đem
mít
của
Việt
Nam qua
đó
bán
để
kiếm
lời?
Tại
Trung
Quốc
hiện
nay,
sản
phẩm
của
Thái
Lan,
Malaysia…
đã
xuất
hiện
rất
nhiều,
nhưng
sản
phẩm
Việt
Nam lại
không
nhiều,
vì
thế
cơ
hội
cho
doanh
nghiệp
Việt
Nam
vẫn
còn
nhiều.
Vì
vậy
tôi
mong
doanh
nghiệp
Việt
Nam
thay
đổi
nhận
thức.
Bà
Vũ
Kim
Hạnh,
Chủ
tịch
Hội
Doanh
nghiệp
hàng
Việt
Nam
chất
lượng
cao:
Chúng
ta
muốn
làm
ăn
với
Trung
Quốc
phải
thay
đổi
suy
nghĩ
của
mình:
một
góc
nào
đó,
chúng
ta
luôn
luôn
nặng
lòng
với
biển
Đông,
nhưng
chúng
ta
phải
hiểu
là Việt
Nam không
thể
được
dọn
đi
chỗ
khác
được.
Chúng
ta
không
thể
thụ
động
nhìn
hàng
Trung
Quốc
ồ
ạt
vào
Việt
Nam
mà
không
có
chiều
ngược
lại.
Có
nhiều
khó
khăn
như:
luật
sư
giỏi,
công
ty
luật,
thuế
quan,
hải
quan.
Nhưng
nếu
chúng
ta
liên
kết
với
nhau
và
có
sự
hỗ
trợ
của
đại
diện
chính
quyền,
thay
đổi
cách
suy
nghĩ
là
làm
ăn
rủi
ro
(Trung
Quốc
là
công
xưởng
của
thế
giới
nên
mình
chỉ
có
thể
nhập
sao
mà
xuất
được…)
để
mở
ra
cơ
hội.
Hội
sẽ
tập
hợp
đội
ngũ
chuyên
gia
để
nghiên
cứu
về
ASEAN
+
1,
ASEAN
+
3
(+8),
hiệp
định
TPP.
Chúng
ta
tận
dụng
tự
do
hóa
thương
mại
với
những
công
cụ
thị
trường
mới
hơn.
Áp
dụng
thêm
vào
đó
là
khung
pháp
lý
của
WTO
mà
chúng
ta
tham
gia
đã
hơn
05
năm.
Chúng
tôi
cũng
đề
nghị
công
ty
Vinamit
cho
ra
một
bộ
phận
nghiên
cứu
và
tư
vấn
cho
doanh
nghiệp
Việt
Nam
về
quy
cách
xuất
khẩu
và
kinh
doanh
tại
Trung
Quốc.
Chúng
tôi
cũng
sẽ
tìm
hiểu
lịch
hội
chợ
và
kết
nối
những
nhóm
doanh
nghiệp
tiềm
năng
để
chúng
ta
đi
xuất
khẩu
bằng
con
đường
chính
ngạch.
Chúng
tôi
sẽ
tổ
chức
những
cuộc
họp
từng
nhóm
(5-10
doanh
nghiệp
cùng
ngành
hoặc
chia
sẻ
giá
trị)
để
bàn
chuyện
làm
ăn
thật,
kể
cả
doanh
nghiệp
ngoài
Hà
Nội.