Dự
thảo
văn
kiện
trình
Đại
hội
Đảng
lần
thứ
12
nhận
định:
“Nhà
nước
còn
can
thiệp
trực
tiếp
quá
lớn
trong
nền
kinh
tế”.
Nguyên
nhân
sâu
xa
của
tình
trạng
này
-
theo
Phó
trưởng
đoàn
đại
biểu
Quốc
hội
Tp.HCM,
TS.
Trần
Du
Lịch
-
vẫn
là
chậm
đổi
mới
nhận
thức
về
vai
trò
của
Nhà
nước
trong
nền
kinh
tế
thị
trường.
Ở
bài
viết
nói
trên,
ông
nhìn
nhận:
“Thực
tiễn
quá
trình
đổi
mới
thể
chế
kinh
tế
của
nước
ta
đã
minh
chứng
rằng:
một
thể
chế
kinh
tế
phù
hợp
sẽ
trở
thành
lực
lượng
vật
chất
để
thúc
đẩy
phát
triển
nền
kinh
tế
quốc
dân”.
Đến
nay
kết
quả
cải
cách
thể
chế
kinh
tế
vẫn
đang
là
vấn
đề
còn
những
đánh
giá
khác
nhau.
Theo
ông,
kết
quả
nổi
bật
nhất
của
cải
cách
thể
chế
kinh
tế
5
năm
qua
là
gì?
Tôi
nghĩ
rằng
việc
có
những
ý
kiến
đánh
giá
khác
nhau
về
kết
quả
cải
cách
thế
chế
kinh
tế
cũng
là
điều
bình
thường.
Tuy
nhiên,
tôi
cho
rằng
những
nội
dung
cải
cách
thể
chế
kinh
tế
vừa
qua
đã
gắn
liền
với
sự
đổi
mới
nhận
thức
về
đặc
điểm
và
sự
vận
hành
của
kinh
tế
thị
trường;
nhận
thức
về
vai
trò
của
các
thành
phần
kinh
tế,
vai
trò
của
Nhà
nước
trong
nền
kinh
tế
thị
trường
của
Việt
Nam.
Việc
thực
hiện
một
trong
3
đột
phá
chiến
lược
trong
5
năm
qua
là
hoàn
thiện
thể
chế
kinh
tế
đã
có
nhiều
nội
dung
đổi
mới
khá
mạnh
mẽ.
Với
sự
ra
đời
của
Hiến
pháp
2013,
ban
hành
nhiều
bộ
luật
và
đạo
luật
nhằm
cải
cách
thể
chế
có
ý
nghĩa
quan
trọng
như:
Bộ
luật
Dân
sự,
Bộ
luật
Hình
sự,
Bộ
luật
Hàng
hải,
Luật
Doanh
nghiệp,
Luật
Dầu
tư,
Luật
Quản
lý,
sử
dụng
vốn
Nhà
nước
đầu
tư
vào
sản
xuất,
kinh
doanh
tại
doanh
nghiệp,
Luật
Kinh
doanh
bất
động
sản,
Luật
Phá
sản,
Luật
Kế
toán,
Luật
Thống
kê…
Nhìn
chung
trong
5
năm
qua,
sự
hoàn
thiện
hệ
thống
pháp
luật
mang
tính
hệ
thống,
và
liên
quan
đến
hầu
hết
các
lĩnh
vực
của
đời
sống
xã
hội.
Sự
đổi
mới
hệ
thống
pháp
luật
trong
lĩnh
vực
kinh
tế
đều
hướng
đến
hai
mục
tiêu:
cải
thiện
môi
trường
đầu
tư
kinh
doanh
trong
nước
và
hội
nhập
với
khu
vực
và
thế
giới.
Tuy
nhiên,
nếu
chỉ
cải
cách
thể
chế
kinh
tế,
mà
chậm
cải
cách
nền
hành
chính
công
và
tài
chính
công
thì
tác
dụng
của
cải
cách
thể
chế
kinh
tế
sẽ
bị
hạn
chế.
Theo
tôi,
hai
lĩnh
vực
sau
chưa
cải
cách
đồng
bộ
và
đang
là
vấn
đề
cần
được
quan
tâm
trong
quá
trình
hoàn
thiện
thể
chế
kinh
tế
thị
trường.
5
năm
trước,
ông
từng
nhận
định
hiệu
lực
và
hiệu
quả
quản
lý
Nhà
nước
về
kinh
tế
chưa
cao
là
do
sự
can
thiệp
của
Nhà
nước
ở
nhiều
cấp
chính
quyền
khác
nhau
không
phù
hợp
với
sự
vận
động
của
thị
trường,
nhưng
mặt
khác
Nhà
nước
lại
thiếu
công
cụ
để
giám
sát
chế
tài
để
bảo
đảm
các
chủ
thể
tham
gia
các
quan
hệ
thị
trường,
tuân
thủ
“luật
chơi”
đã
đề
ra.
Nay
dự
thảo
văn
kiện
trình
Đại
hội
12
vẫn
nói:
“Nhà
nước
còn
can
thiệp
trực
tiếp
quá
lớn
trong
nền
kinh
tế”.
Vậy
theo
ông,
nguyên
nhân
của
tình
trạng
này
là
gì,
có
thể
khắc
phục
được
không,
và
bằng
cách
nào?
Tôi
cho
rằng
nguyên
nhân
sâu
xa
vẫn
là
chậm
đổi
mới
nhận
thức
về
vai
trò
của
Nhà
nước
trong
nền
kinh
tế
thị
trường.
Trong
điều
kiện
lực
lượng
doanh
nghiệp
khu
vực
tư
nhân
còn
non
yếu,
trước
sức
ép
hội
nhập
cạnh
tranh
gay
gắt,
Nhà
nước
còn
phải
đóng
vai
trò
“bà
đỡ”
cho
thị
trường,
chứ
không
làm
thay
thị
trường.
Gần
đây
Quốc
hội
đã
ban
hành
một
số
đạo
luật
theo
hướng
này
như
Luật
Doanh
nghiệp;
Luật
Đầu
tư;
Luật
Quản
lý,
sử
dụng
vốn
Nhà
nước
đầu
tư
vào
sản
xuất,
kinh
doanh
tại
doanh
nghiệp…
sẽ
ban
hành
Luật
hỗ
trợ
doanh
nghiệp
vừa
và
nhỏ
trong
năm
2016…
Nhà
nước
cũng
đang
giảm
dần
những
“bao
cấp”
trong
quan
hệ
dân
sự
thông
qua
việc
ban
hành
Bộ
luật
Dân
sự;
Bộ
luật
Tố
tụng
dân
sự
năm
2015;
các
chế
định
như
công
chứng
tư;
thi
hành
án
dân
sự;
thừa
phát
lại…
qua
đó
ngày
càng
làm
rõ
hơn
vai
trò
của
Nhà
nước,
không
chỉ
trong
quan
hệ
kinh
tế
mà
cả
trong
quan
hệ
dân
sự.
Tách
quản
lý
Nhà
nước
khỏi
sản
xuất
kinh
doanh
Trong
nhiệm
kỳ
qua,
khái
niệm
nền
kinh
tế
thị
trường
định
hướng
xã
hội
chủ
nghĩa
đã
gây
không
ít
tranh
luận.
Dự
thảo
văn
kiện
trình
Đại
hội
12
nói:
“Nền
kinh
tế
thị
trường
định
hướng
xã
hội
chủ
nghĩa
Việt
Nam
có
quan
hệ
sản
xuất
tiến
bộ
phù
hợp
với
trình
độ
phát
triển
của
lực
lượng
sản
xuất,
có
nhiều
hình
thức
sở
hữu,
nhiều
thành
phần
kinh
tế
trong
đó
kinh
tế
Nhà
nước
là
chủ
đạo,
kinh
tế
tư
nhân
là
một
động
lực
quan
trọng
của
nền
kinh
tế,
các
chủ
thể
thuộc
các
thành
phần
kinh
tế
bình
đẳng,
hợp
tác
và
cạnh
tranh
theo
pháp
luật”,
ông
có
bình
luận
gì
về
vấn
đề
này?
Thật
ra
tôi
không
có
bình
luận
gì,
chỉ
nói
rõ
hơn
là
những
nội
dung
nêu
trên
cơ
bản
đã
chế
định
tại
điều
51
và
52
Hiến
pháp
2013,
nên
đã
là
những
nội
dung
mang
tính
hiến
định.
Mặt
khác
nội
dung
trên
còn
có
điểm
mới
tích
cực
về
vai
trò
“động
lực
quan
trọng”
của
khu
vực
kinh
tế
tư
nhân.
Nếu
hiểu
kinh
tế
Nhà
nước
bao
gồm
cả
tài
nguyên
ngân
sách
Nhà
nước;
các
nguồn
dự
trữ
quốc
gia,
dự
trữ
ngoại
hối,
cơ
sở
hạ
tầng
do
Nhà
nước
đầu
tư…
và
doanh
nghiệp
Nhà
nước,
thì
hoàn
toàn
khác
với
doanh
nghiệp
Nhà
nước.
Theo
quy
định
tại
điều
4,
khoản
8
Luật
Doanh
nghiệp
(2014)
thì
doanh
nghiệp
Nhà
nước
là
doanh
nghiệp
do
Nhà
nước
sở
hữu
100%
vốn
điều
lệ,
thì
loại
hình
này
chiếm
tỷ
trọng
không
lớn
trong
cơ
cấu
các
thành
phần
kinh
tế,
nhất
là
thực
hiện
tiến
trình
cổ
phần
hóa
doanh
nghiệp
Nhà
nước
như
mục
tiêu
đề
ra.
Chúng
ta
cũng
đang
thực
hiện
nguyên
tắc:
công
dân
được
quyền
đầu
tư
kinh
doanh
những
gì
luật
không
cấm
(theo
Luật
Đầu
tư),
còn
Nhà
nước
chỉ
được
đầu
tư
thành
lập
doanh
nghiệp
Nhà
nước
ở
những
lĩnh
vực
luật
cho
phép
(điều
10
Luật
Quản
lý,
sử
dụng
vốn
Nhà
nước
đầu
tư
vào
sản
xuất,
kinh
doanh
tại
doanh
nghiệp).
Sự
đổi
mới
thể
chế
kinh
tế,
tuy
còn
phải
tiếp
tục
mạnh
mẽ
và
đồng
bộ
hơn
nữa,
nhưng
đang
phát
triển
theo
hướng
tích
cực.
Quốc
hội
đã
sửa
đổi
và
ban
hành
rất
nhiều
luật
mới
liên
quan
đến
thể
chế
kinh
tế,
nhưng
đến
nay
dự
thảo
văn
kiện
Đại
hội
12
vẫn
phải
đặt
vấn
đề
thành
lập
một
cơ
quan
chuyên
trách
làm
đại
diện
chủ
sở
hữu
doanh
nghiệp
Nhà
nước.
Phải
chăng
đây
là
vấn
đề
quá
khó
hay
vướng
mắc
ở
chỗ
nào
mà
không
thể
tháo
gỡ
suốt
5
năm
qua,
thưa
ông?
Vấn
đề
đặt
ra
hàng
chục
năm
nay
là
phải
tách
quản
lý
Nhà
nước
ra
khỏi
sản
xuất
kinh
doanh,
không
để
các
cơ
quan
công
quyền
từ
trung
ương
đến
địa
phương
“làm
chủ
quản
doanh
nghiệp”.
Nói
cụ
thể
là
không
để
các
doanh
nghiệp
hoạt
động
kinh
doanh
trực
thuộc
bộ,
ngành
hay
chính
quyền
địa
phương.
Tuy
nhiên
trên
thực
tế
vẫn
còn
hàng
ngàn
doanh
nghiệp
Nhà
nước
và
doanh
nghiệp
do
Nhà
nước
nắm
giữ
cổ
phần
với
tư
cách
là
cổ
đông.
Vậy
ai
là
người
đại
diện
chủ
sở
hữu?
Việc
tìm
kiếm
mô
hình
quản
lý
phù
hợp,
để
tránh
tình
trạng
“Nhà
nước
vừa
đá
bóng
vừa
thổi
còi”
đã
đặt
ra
từ
nhiều
năm
qua.
Ngay
trong
Luật
Quản
lý,
sử
dụng
vốn
Nhà
nước
đầu
tư
vào
sản
xuất,
kinh
doanh
tại
doanh
nghiệp
vẫn
chưa
minh
thị
“cơ
quan
đại
diện
chủ
sở
hữu
Nhà
nước”
là
cơ
quan
nào,
mà
quy
định
chung
về
quyền
hạn
và
trách
nhiệm
của
Chính
phủ,
Thủ
tướng
Chính
phủ
(điều
7
của
luật).
Do
đó,
nếu
thành
lập
một
cơ
quan
chuyên
trách
trực
thuộc
Chính
phủ
để
đại
diện
chủ
sở
hữu
Nhà
nước,
còn
các
bộ,
ngành
chỉ
thực
hiện
chức
năng
quản
lý
hành
chính
Nhà
nước,
thì
hoàn
toàn
phù
hợp
với
luật
hiện
hành.