Ngày
6/1,
Tổng
Bí
thư
Nguyễn
Phú
Trọng
đã
ký
ban
hành
Nghị
quyết
số
11-NQ/TW
của
Bộ
Chính
trị
về
phương
hướng,
nhiệm
vụ
phát
triển
Thủ
đô
Hà
Nội
giai
đoạn
2011-2020.
I-
Tình
hình
và
kết
quả
10
năm
thực
hiện
Nghị
quyết
15-NQ/TW
của
Bộ
Chính
trị
1-
Thủ
đô
Hà
Nội
có
bề
dày
lịch
sử
và
truyền
thống
cách
mạng
vẻ
vang,
là
địa
danh
tiêu
biểu
cho
truyền
thống
"Văn
hiến-Anh
hùng-Hòa
bình-Hữu
nghị"
của
dân
tộc
Việt
Nam.
Từ
ngày
có
Đảng
đến
nay,
Đảng
bộ,
chính
quyền
và
nhân
dân
Thủ
đô
Hà
Nội
đã
luôn
phát
huy
truyền
thống
đoàn
kết,
gương
mẫu,
đi
đầu,
có
những
đóng
góp
quan
trọng
cho
sự
nghiệp
xây
dựng
và
bảo
vệ
Tổ
quốc.
Mười
năm
qua,
thực
hiện
Nghị
quyết
15-NQ/TW
của
Bộ
Chính
trị
(khoá
VIII)
"Về
nhiệm
vụ,
phương
hướng
phát
triển
Thủ
đô
Hà
Nội
trong
thời
kỳ
2001-2010"
trong
bối
cảnh
vừa
có
thuận
lợi,
thời
cơ,
vừa
có
khó
khăn,
thách
thức
chung
của
cả
nước,
Hà
Nội
còn
thực
hiện
chủ
trương
lớn
về
mở
rộng
địa
giới
hành
chính
Thủ
đô
theo
Nghị
quyết
15
của
Quốc
hội
khoá
XII
và
nhiều
nhiệm
vụ
quan
trọng
kỷ
niệm
1.000
năm
Thăng
Long-Hà
Nội.
Với
sự
nỗ
lực
phấn
đấu
và
quyết
tâm
cao,
Đảng
bộ,
chính
quyền
và
nhân
dân
Hà
Nội
đã
quán
triệt,
vận
dụng,
tổ
chức
thực
hiện
nghiêm
túc,
sáng
tạo
các
chủ
trương,
nghị
quyết
của
Đảng
và
Nhà
nước,
đạt
được
nhiều
thành
tựu
nổi
bật:
Kinh
tế
liên
tục
tăng
trưởng
cao;
cơ
cấu
kinh
tế
dịch
vụ-công
nghiệp-nông
nghiệp
chuyển
dịch
tích
cực
ngày
càng
rõ
nét;
quy
mô
kinh
tế
được
mở
rộng;
kết
cấu
hạ
tầng
kinh
tế-xã
hội
và
đô
thị
phát
triển
theo
hướng
hiện
đại.
Bộ
mặt
thành
phố,
kể
cả
khu
vực
đô
thị
và
vùng
nông
thôn
có
nhiều
thay
đổi.
Đặc
biệt,
việc
tập
trung
giải
quyết
thành
công
một
khối
lượng
lớn
công
việc
trong
quá
trình
hợp
nhất,
mở
rộng
địa
giới
hành
chính,
đã
đưa
Thủ
đô
Hà
Nội
bước
vào
thời
kỳ
phát
triển
mới,
với
một
tầm
vóc
lớn
hơn.
Văn
hóa-xã
hội
tiếp
tục
phát
triển,
đạt
nhiều
kết
quả
quan
trọng,
nhất
là
về
xây
dựng
người
Hà
Nội
thanh
lịch,
văn
minh;
giữ
gìn
và
phát
huy
những
giá
trị
văn
hoá
tiêu
biểu
của
Thăng
Long-Hà
Nội;
mở
rộng
quy
mô
đi
đôi
với
nâng
cao
chất
lượng
giáo
dục,
đào
tạo,
y
tế;
gắn
kết
khoa
học-công
nghệ
với
sản
xuất,
kinh
doanh;
giải
quyết
việc
làm,
giảm
tỉ
lệ
hộ
nghèo
và
bảo
đảm
an
sinh
xã
hội.
Đời
sống
của
nhân
dân
Thủ
đô,
đặc
biệt
là
ở
vùng
nông
thôn,
xa
trung
tâm
được
cải
thiện
rõ
rệt.
Hệ
thống
chính
trị
được
củng
cố,
tăng
cường;
năng
lực
lãnh
đạo
và
sức
chiến
đấu
của
Đảng
bộ,
hiệu
lực,
hiệu
quả
quản
lý
nhà
nước
của
các
cấp
chính
quyền
được
nâng
cao,
nội
dung
và
phương
thức
hoạt
động
của
Mặt
trận
Tổ
quốc,
các
đoàn
thể
nhân
dân
có
những
đổi
mới,
hướng
về
cơ
sở.
Chính
trị-xã
hội
ổn
định;
quốc
phòng,
an
ninh,
trật
tự
được
tăng
cường,
bảo
vệ
an
toàn
tuyệt
đối
các
cơ
quan
đầu
não
của
Đảng,
Nhà
nước,
các
sự
kiện
chính
trị,
kinh
tế,
văn
hóa,
đối
ngoại
diễn
ra
trên
địa
bàn.
Quan
hệ
đối
ngoại
tiếp
tục
được
mở
rộng;
việc
tổ
chức
thành
công
Đại
lễ
kỷ
niệm
1.000
năm
Thăng
Long-Hà
Nội
đã
để
lại
ấn
tượng
tốt
đẹp,
nâng
cao
hơn
vai
trò,
vị
thế
của
Thủ
đô.
Sau
hơn
25
năm
đổi
mới
và
10
năm
thực
hiện
Nghị
quyết
15-NQ/TW
của
Bộ
Chính
trị,
Hà
Nội
đã
đạt
được
nhiều
thành
tựu
to
lớn,
toàn
diện,
tạo
sự
chuyển
biến
căn
bản
trong
đời
sống
xã
hội,
góp
phần
rất
quan
trọng
vào
thành
tựu
chung
của
vùng
và
cả
nước.
Trong
quá
trình
xây
dựng
và
phát
triển,
Thủ
đô
Hà
Nội
đã
vinh
dự
được
Đảng,
Nhà
nước
phong
tặng
danh
hiệu
"Thủ
đô
Anh
hùng,"
ba
lần
được
tặng
thưởng
Huân
chương
Sao
vàng
và
được
tổ
chức
UNESCO
vinh
danh
là
"Thành
phố
vì
hoà
bình"…
2-
Tuy
nhiên,
tình
hình
chung
của
Hà
Nội
vẫn
còn
một
số
hạn
chế,
yếu
kém:
Kinh
tế
phát
triển
chưa
toàn
diện;
năng
suất,
chất
lượng,
hiệu
quả,
sức
cạnh
tranh
nhìn
chung
còn
thấp.
Các
nguồn
lực
về
vốn,
nhân
lực
và
công
nghệ
trên
địa
bàn
chưa
được
khai
thác
tốt.
Kinh
tế
tri
thức,
hàm
lượng
chất
xám
làm
nên
giá
trị
gia
tăng
cao
của
các
ngành
kinh
tế
chủ
lực
chưa
thể
hiện
rõ
nét.
Sức
lan
tỏa
của
một
"trung
tâm
kinh
tế
lớn,"
một
"động
lực
kinh
tế"
trong
vùng
đồng
bằng
Sông
Hồng
và
cả
nước
còn
hạn
chế.
Công
tác
quy
hoạch,
xây
dựng
và
quản
lý
đô
thị
còn
nhiều
hạn
chế.
Việc
xây
dựng
và
phê
duyệt
một
số
quy
hoạch
chung
còn
chậm;
hệ
thống
hạ
tầng
đô
thị
và
nông
thôn
còn
lạc
hậu
và
chưa
đồng
bộ.
Nhiều
vấn
đề
tồn
tại
trong
quản
lý
quy
hoạch,
đất
đai,
trật
tự
xây
dựng,
xử
lý
úng
ngập,
ô
nhiễm
môi
trường,
ùn
tắc
giao
thông,
tăng
dân
số
cơ
học…
chậm
được
khắc
phục,
gây
nhiều
bức
xúc
cho
nhân
dân.
Kết
quả
xây
dựng
văn
hóa
người
Hà
Nội
thanh
lịch,
văn
minh
chưa
tương
xứng
với
yêu
cầu
Thủ
đô
ngàn
năm
văn
hiến;
vai
trò
của
một
trung
tâm
lớn
về
văn
hoá,
khoa
học,
giáo
dục,
y
tế
và
giao
dịch
quốc
tế
của
vùng
và
cả
nước
chưa
được
phát
huy
đầy
đủ.
Khoảng
cách
giàu-nghèo
giữa
thành
thị
và
nông
thôn
còn
lớn.
An
ninh
chính
trị,
trật
tự,
an
toàn
xã
hội
trên
địa
bàn
tiềm
ẩn
những
nguy
cơ
gây
mất
ổn
định;
tệ
nạn
xã
hội
vẫn
diễn
biến
phức
tạp.
Công
tác
xây
dựng
Đảng,
xây
dựng
hệ
thống
chính
trị
chuyển
biến
chưa
đồng
bộ.
Vai
trò
hạt
nhân
lãnh
đạo
chính
trị
của
một
số
tổ
chức
cơ
sở
đảng,
nhất
là
cấp
xã,
phường,
doanh
nghiệp
còn
thấp;
thái
độ,
ý
thức
trách
nhiệm
của
một
bộ
phận
cán
bộ,
đảng
viên
chưa
cao.
Cải
cách
hành
chính
chưa
đạt
được
yêu
cầu
đề
ra.
Sự
phân
công,
phân
cấp,
phối
hợp
của
các
bộ,
ngành
Trung
ương
đối
với
Thủ
đô
Hà
Nội
có
mặt
còn
chưa
hợp
lý,
chưa
thường
xuyên
và
kịp
thời.
3-
Những
hạn
chế,
yếu
kém
nêu
trên
là
do
việc
thể
chế
hóa
Nghị
quyết
15-NQ/TW
của
Bộ
Chính
trị
còn
chậm;
cơ
chế,
chính
sách
có
liên
quan
đến
Hà
Nội
chưa
đồng
bộ,
nhiều
mặt
chưa
phù
hợp
với
yêu
cầu,
đặc
điểm
và
nhiệm
vụ
của
Thủ
đô;
phân
công,
phân
cấp,
phối
hợp
giữa
Trung
ương
và
thành
phố
chưa
tốt;
những
tác
động
xấu
của
cuộc
khủng
hoảng
tài
chính
và
suy
thoái
kinh
tế
toàn
cầu,
của
biến
đổi
khí
hậu
và
thiên
tai…
Công
tác
chỉ
đạo,
điều
hành,
tổ
chức
thực
hiện
Nghị
quyết
của
thành
phố
trên
một
số
lĩnh
vực
còn
hạn
chế,
thiếu
năng
động,
quyết
liệt,
thậm
chí
có
mặt
còn
trì
trệ;
sự
phối
hợp
giữa
các
bộ,
ban,
ngành
Trung
ương
với
thành
phố
còn
nhiều
hạn
chế,
vướng
mắc.
II-
Phương
hướng,
nhiệm
vụ
phát
triển
Thủ
đô
Hà
Nội
giai
đoạn
2011-2020
1-
Trong
10
năm
tới,
trên
cơ
sở
vận
dụng
sáng
tạo
Nghị
quyết
Đại
hội
XI
của
Đảng,
Chiến
lược
phát
triển
kinh
tế-xã
hội
2011-2020
gắn
với
thực
hiện
có
hiệu
quả
Nghị
quyết
Đại
hội
XV
Đảng
bộ
thành
phố,
Quy
hoạch
tổng
thể
phát
triển
kinh
tế-xã
hội
và
Quy
hoạch
chung
xây
dựng
Thủ
đô
Hà
Nội,
huy
động
tối
đa
sức
mạnh
tổng
hợp
cả
về
vật
chất
và
tinh
thần
của
Thủ
đô
và
cả
nước
xây
dựng
và
phát
triển
Thủ
đô
Hà
Nội
xứng
đáng
với
vai
trò
là
trung
tâm
chính
trị-hành
chính
quốc
gia,
trung
tâm
lớn
về
văn
hóa,
khoa
học,
giáo
dục,
kinh
tế
và
giao
dịch
quốc
tế,
một
động
lực
phát
triển
của
vùng
đồng
bằng
Sông
Hồng
và
cả
nước;
có
kinh
tế-xã
hội
phát
triển
toàn
diện,
bền
vững,
đời
sống
vật
chất,
tinh
thần
của
nhân
dân
ngày
càng
được
nâng
cao,
chính
trị-xã
hội
ổn
định,
quốc
phòng,
an
ninh
tiếp
tục
được
củng
cố,
tăng
cường,
hệ
thống
chính
trị
ngày
càng
trong
sạch,
vững
mạnh.
Phấn
đấu
để
Hà
Nội
thực
sự
là
địa
phương
đi
đầu,
về
đích
sớm
1-2
năm
sự
nghiệp
công
nghiệp
hóa,
hiện
đại
hóa,
góp
phần
cùng
cả
nước
thực
hiện
thắng
lợi
mục
tiêu
cơ
bản
trở
thành
nước
công
nghiệp
theo
hướng
hiện
đại
vào
năm
2020;
đóng
góp
ngày
càng
quan
trọng
vào
sự
nghiệp
đổi
mới,
xây
dựng
và
bảo
vệ
Tổ
quốc.
2-
Để
thực
hiện
được
phương
hướng
cơ
bản
nêu
trên,
cần
tập
trung
thực
hiện
các
nhiệm
vụ,
giải
pháp
chủ
yếu
sau
đây:
2.1-
Tiếp
tục
xây
dựng
và
phát
triển
kinh
tế
thị
trường
định
hướng
xã
hội
chủ
nghĩa,
đẩy
mạnh
đổi
mới
mô
hình
tăng
trưởng
và
cơ
cấu
lại
nền
kinh
tế,
phát
triển
kinh
tế
tri
thức,
nâng
cao
chất
lượng,
hiệu
quả
và
tính
bền
vững
của
kinh
tế
Thủ
đô.
Coi
trọng
sử
dụng
công
nghệ
hiện
đại,
tăng
nhanh
tỉ
lệ
nội
địa
hoá,
có
nhiều
sản
phẩm
với
hàm
lượng
công
nghệ,
giá
trị
gia
tăng
và
sức
cạnh
tranh
cao.
Tập
trung
phát
triển
đồng
bộ,
vững
chắc
các
yếu
tố
thị
trường
và
các
loại
thị
trường,
nhất
là
những
loại
thị
trường
mới
được
hình
thành,
như
bất
động
sản,
chứng
khoán,
lao
động,
khoa
học-công
nghệ...
Tiếp
tục
chuyển
dịch
nhanh
cơ
cấu
kinh
tế
theo
hướng
dịch
vụ-công
nghiệp-nông
nghiệp.
Khuyến
khích,
phát
triển
các
loại
hình
dịch
vụ
có
trình
độ
và
chất
lượng
cao;
đẩy
mạnh
và
nâng
cao
hiệu
quả
các
hoạt
động
xuất-nhập
khẩu,
du
lịch.
Phát
triển
mạnh
các
ngành
công
nghiệp
chủ
lực,
công
nghiệp
phụ
trợ,
công
nghiệp
công
nghệ
cao;
nâng
cao
chất
lượng
và
sức
cạnh
tranh
của
các
sản
phẩm
công
nghiệp
mũi
nhọn.
Phát
triển
nông
nghiệp
bền
vững,
hiệu
quả
theo
hướng
đẩy
mạnh
sản
xuất
hàng
hoá,
sinh
thái,
sạch,
công
nghệ
cao;
đẩy
nhanh
tiến
trình
xây
dựng
nông
thôn
mới,
phấn
đấu
2/3
số
xã
đạt
tiêu
chí
vào
năm
2020.
Phấn
đấu
mức
tăng
trưởng
GDP
bình
quân
thời
kỳ
2011-2020
đạt
khoảng
11,5-12%/năm;
GDP
bình
quân
đầu
người
đến
năm
2020
khoảng
7.100-7.500
USD/năm;
xứng
đáng
là
trung
tâm
kinh
tế
lớn,
trung
tâm
tài
chính
-
ngân
hàng
hàng
đầu
của
vùng
và
cả
nước.
Phát
triển
mạnh
các
thành
phần
kinh
tế,
các
loại
hình
doanh
nghiệp.
Trọng
tâm
là
nâng
cao
vai
trò
chủ
đạo
của
kinh
tế
nhà
nước,
đổi
mới,
nâng
cao
hiệu
quả
và
vai
trò
nòng
cốt
của
doanh
nghiệp
nhà
nước,
nhất
là
nâng
cao
hiệu
quả
và
sức
cạnh
tranh
của
các
tổng
công
ty
nhà
nước
trực
thuộc
thành
phố;
phát
triển
kinh
tế
tập
thể,
nòng
cốt
là
hợp
tác
xã;
khuyến
khích,
phát
triển
kinh
tế
tư
nhân,
các
loại
hình
doanh
nghiệp
sở
hữu
hỗn
hợp
theo
quy
hoạch
và
quy
định
của
pháp
luật.
2.2-
Tập
trung
đổi
mới
và
nâng
cao
chất
lượng
công
tác
xây
dựng
và
quản
lý
quy
hoạch
bảo
đảm
đồng
bộ,
hiện
đại,
ổn
định
và
lâu
dài.
Trên
cơ
sở
các
quy
hoạch
chung
đã
được
Thủ
tướng
Chính
phủ
phê
duyệt,
đẩy
nhanh
việc
xây
dựng
các
quy
hoạch
chi
tiết,
phân
khu
chức
năng,
ngành,
lĩnh
vực
và
địa
phương.
Huy
động
tối
đa
mọi
nguồn
lực
tạo
bước
đột
phá
về
tăng
cường
đầu
tư
đồng
bộ
kết
cấu
hạ
tầng,
nhất
là
giao
thông
và
hạ
tầng
kỹ
thuật
khung
làm
cơ
sở
để
đẩy
nhanh
tiến
trình
xây
dựng
Thủ
đô
văn
minh,
hiện
đại.
Tập
trung
đầu
tư
để
cơ
bản
hoàn
thành
việc
cải
tạo
hệ
thống
giao
thông
khu
vực
nội
đô
vào
năm
2015;
sớm
hoàn
thành
các
dự
án
tuyến
đường
vành
đai
thành
phố;
triển
khai
nhanh
các
dự
án
giao
thông
trên
cao,
đường
sắt
đô
thị,
các
công
trình
ngầm
gắn
với
phát
triển
vận
tải
hành
khách
công
cộng
bằng
các
hình
thức
vận
tải
hiện
đại
và
tổ
chức
quản
lý
giao
thông
khoa
học.
Đẩy
nhanh
tiến
độ
cải
tạo
và
nâng
cấp
hệ
thống
cung
cấp
điện,
cấp,
thoát
nước
thành
phố.
Tiếp
tục
phát
triển
các
khu
đô
thị
mới,
xây
dựng
các
khu
đô
thị
vệ
tinh.
Xử
lý
tốt
hơn
những
vấn
đề
về
nhà
ở
đô
thị,
quản
lý
đất
đai,
trật
tự
xây
dựng,
trật
tự
và
an
toàn
giao
thông,
trật
tự
công
cộng,
xử
lý
chất
thải
và
bảo
đảm
vệ
sinh
môi
trường,
xây
dựng
nếp
sống
văn
minh
đô
thị...
Hoàn
thành
việc
di
dời
các
cơ
sở
sản
xuất
gây
ô
nhiễm
môi
trường,
một
số
trường
đại
học,
cơ
sở
khám,
chữa
bệnh
ra
khỏi
trung
tâm
thành
phố.
Tăng
cường
công
tác
quản
lý
dân
cư
trên
địa
bàn;
phối
hợp
chặt
chẽ
với
các
tỉnh,
thành
phố,
nhất
là
các
địa
phương
lân
cận
đẩy
mạnh
phát
triển
kinh
tế
-
xã
hội
và
giải
quyết
việc
làm,
nhằm
hạn
chế
tình
trạng
di
dân
tự
phát
vào
Hà
Nội.
Phấn
đấu
trước
năm
2020,
khắc
phục
cho
được
nạn
úng
ngập,
khắc
phục
cơ
bản
nạn
ùn
tắc
giao
thông
trong
nội
đô
và
đạt
được
những
tiêu
chí
cơ
bản
của
một
Thủ
đô
văn
hiến,
văn
minh,
hiện
đại.
2.3-
Huy
động
mọi
tiềm
năng,
thế
mạnh,
nguồn
lực
và
đẩy
mạnh
xã
hội
hoá
để
phát
triển
sự
nghiệp
văn
hoá,
giáo
dục
-
đào
tạo,
y
tế,
khoa
học
-
công
nghệ
thực
sự
trở
thành
những
trung
tâm
lớn,
đáp
ứng
yêu
cầu
phát
triển
Thủ
đô
và
cho
sự
phát
triển
chung
của
vùng
và
cả
nước.
Tiếp
tục
xây
dựng
văn
hoá
Thủ
đô
xứng
tầm
với
truyền
thống
ngàn
năm
văn
hiến;
tạo
bước
chuyển
biến
mới
trong
xây
dựng
văn
hoá
người
Hà
Nội
thanh
lịch,
văn
minh;
tiếp
tục
phát
triển
hệ
thống
thông
tin
đại
chúng,
sự
nghiệp
sáng
tạo
văn
học,
nghệ
thuật,
hoàn
thiện
các
thiết
chế
văn
hoá,
bảo
tồn
và
phát
huy
các
giá
trị
lịch
sử,
văn
hoá
truyền
thống
Thăng
Long-Hà
Nội
đi
đôi
với
xây
dựng
mới
các
công
trình
văn
hoá
tiêu
biểu.
Xây
dựng,
phát
triển,
nâng
cao
vị
thế
hàng
đầu
của
giáo
dục
-
đào
tạo
Thủ
đô;
đi
đầu
trong
phổ
cập
giáo
dục
mầm
non,
phổ
cập
giáo
dục
trung
học
phổ
thông
và
trong
đào
tạo,
phát
triển
nguồn
nhân
lực
chất
lượng
cao,
đáp
ứng
yêu
cầu
công
nghiệp
hoá,
hiện
đại
hoá.
Tiếp
tục
xây
dựng,
nhân
rộng
các
trường
chất
lượng
cao
ở
tất
cả
các
bậc
học,
cấp
học.
Phát
triển
đồng
bộ
hệ
thống
y
tế
đáp
ứng
tốt
nhu
cầu
chăm
sóc
và
bảo
vệ
sức
khoẻ
nhân
dân.
Đa
dạng
hoá
các
hình
thức
chăm
sóc
sức
khoẻ
nhân
dân
đi
đôi
với
đầu
tư
phát
triển
một
số
cơ
sở
y
tế
chuyên
sâu,
kỹ
thuật
cao,
đạt
trình
độ
khu
vực
và
quốc
tế.
Làm
tốt
công
tác
y
tế
dự
phòng,
bảo
đảm
vệ
sinh
an
toàn
thực
phẩm.
Phát
triển
mạnh
khoa
học
-
công
nghệ
gắn
với
phát
triển
kinh
tế
tri
thức.
Chủ
động
phối
hợp
với
các
học
viện,
trường
đại
học,
trung
tâm
nghiên
cứu
trên
địa
bàn;
coi
trọng
hợp
tác
quốc
tế
để
đẩy
mạnh
nghiên
cứu,
ứng
dụng,
chuyển
giao
các
thành
tựu
khoa
học
-
công
nghệ,
phục
vụ
quá
trình
công
nghiệp
hoá,
hiện
đại
hoá
Thủ
đô.
Tăng
cường
công
tác
phòng
ngừa,
khắc
phục
ô
nhiễm,
khôi
phục
và
bảo
vệ
môi
trường
sinh
thái,
chủ
động
phòng
tránh
thiên
tai,
ứng
phó
có
hiệu
quả
với
biến
đổi
khí
hậu.
Thực
hiện
tốt
các
chính
sách
xã
hội
và
bảo
đảm
an
sinh
xã
hội,
nâng
cao
chất
lượng
cuộc
sống
cho
nhân
dân
Thủ
đô,
thu
hẹp
khoảng
cách
giàu-nghèo
giữa
thành
thị
và
nông
thôn.
2.4-
Tăng
cường
tiềm
lực
quốc
phòng,
an
ninh;
giữ
vững
ổn
định
chính
trị
-
xã
hội,
bảo
đảm
an
toàn
tuyệt
đối
các
cơ
quan
đầu
não
của
Đảng
và
Nhà
nước,
các
hoạt
động
đối
ngoại
quốc
gia,
các
sự
kiện
chính
trị
lớn
diễn
ra
trên
địa
bàn.
Tiếp
tục
xây
dựng
lực
lượng
quân
đội,
công
an
Thủ
đô
cách
mạng,
chính
quy,
tinh
nhuệ,
từng
bước
hiện
đại,
thực
sự
là
nòng
cốt
trong
thực
hiện
nhiệm
vụ
quốc
phòng,
an
ninh.
Xây
dựng
vững
chắc
thế
trận
lòng
dân,
gắn
kết
chặt
chẽ
giữa
phát
triển
kinh
tế
với
bảo
đảm
quốc
phòng,
an
ninh
ngay
từ
khi
xác
định
chủ
trương,
hình
thành
các
dự
án,
công
trình
cụ
thể;
tập
trung
đầu
tư,
phát
triển
công
nghiệp
quốc
phòng,
an
ninh,
đáp
ứng
yêu
cầu,
nhiệm
vụ
trong
tình
hình
mới.
Triển
khai
có
hiệu
quả
việc
đấu
tranh
với
các
hoạt
động
chống
phá
của
các
thế
lực
thù
địch,
phòng,
chống
tội
phạm
và
tệ
nạn
xã
hội;
xử
lý
có
hiệu
quả
các
vấn
đề
phức
tạp
nảy
sinh,
không
để
bất
ngờ
xảy
ra.
2.5-
Chủ
động,
tích
cực
hội
nhập
quốc
tế;
tăng
cường
các
hoạt
động
đối
ngoại,
nhất
là
với
thủ
đô
một
số
nước.
Mở
rộng
và
nâng
cao
hiệu
quả
hợp
tác,
liên
kết
với
một
số
địa
phương
trong
vùng
và
cả
nước.
2.6-
Tập
trung
mọi
nỗ
lực
xây
dựng
hệ
thống
chính
trị
từ
thành
phố
đến
cơ
sở
thực
sự
trong
sạch,
vững
mạnh.
Tạo
chuyển
biến
mạnh
hơn
trong
công
tác
xây
dựng
Đảng,
nâng
cao
năng
lực
lãnh
đạo
và
sức
chiến
đấu
của
toàn
Đảng
bộ,
nhất
là
tổ
chức
cơ
sở
đảng
và
đội
ngũ
đảng
viên.
Nâng
cao
hiệu
lực,
hiệu
quả
quản
lý
nhà
nước
của
chính
quyền
các
cấp;
phát
huy
dân
chủ
và
sức
mạnh
đại
đoàn
kết
toàn
dân,
đổi
mới
và
nâng
cao
chất
lượng
hoạt
động
của
Mặt
trận
Tổ
quốc
và
các
đoàn
thể
nhân
dân.
Xây
dựng
đội
ngũ
cán
bộ
của
thành
phố
có
trình
độ,
năng
lực,
ý
thức
trách
nhiệm
cao,
tâm
huyết
với
công
việc,
đáp
ứng
yêu
cầu,
nhiệm
vụ.
Nâng
cao
chất
lượng,
hiệu
quả
công
tác
cải
cách
hành
chính,
cải
cách
tư
pháp
và
phòng,
chống
tham
nhũng,
lãng
phí.
III-
Tổ
chức
thực
hiện
1-
Thực
hiện
Nghị
quyết
của
Bộ
Chính
trị
"Về
phương
hướng,
nhiệm
vụ
phát
triển
Thủ
đô
Hà
Nội
giai
đoạn
2011
-
2020"
trước
hết
là
trách
nhiệm
của
Đảng
bộ,
chính
quyền
và
nhân
dân
thành
phố
Hà
Nội,
đồng
thời
cũng
là
trách
nhiệm
của
các
cấp
uỷ,
tổ
chức
đảng,
nhà
nước,
Mặt
trận
Tổ
quốc,
đoàn
thể
nhân
dân
ở
Trung
ương
và
các
địa
phương
trong
cả
nước.
2-
Bộ
Chính
trị
chỉ
đạo
việc
sơ
kết
Nghị
quyết
theo
định
kỳ
5
năm;
tuỳ
thời
gian
và
yêu
cầu
công
việc,
có
hội
nghị
về
công
tác
lãnh
đạo
Thủ
đô
Hà
Nội.
Ban
Bí
thư
chỉ
đạo
việc
quán
triệt,
triển
khai
thực
hiện
và
định
kỳ
(1
hoặc
2
năm)
đánh
giá
việc
thực
hiện
Nghị
quyết.
3-
Đảng
đoàn
Quốc
hội
lãnh
đạo
việc
chuẩn
bị
và
trình
Quốc
hội
xem
xét,
thông
qua
Luật
Thủ
đô,
tạo
cơ
sở
pháp
lý
cho
quá
trình
xây
dựng
và
phát
triển.
4-
Ban
cán
sự
đảng
Chính
phủ
lãnh
đạo
việc
hướng
dẫn
thi
hành
Luật
Thủ
đô
khi
được
Quốc
hội
ban
hành;
xây
dựng
một
số
cơ
chế,
chính
sách
và
phân
cấp
cho
chính
quyền
Hà
Nội
thẩm
quyền,
trách
nhiệm
giải
quyết
công
việc
phù
hợp
với
yêu
cầu,
nhiệm
vụ
đặc
thù
của
Thủ
đô,
trọng
tâm
là
các
lĩnh
vực
đầu
tư,
tài
chính,
quản
lý
trật
tự
xây
dựng,
trật
tự
giao
thông,
quản
lý
môi
trường,
quản
lý
dân
cư…;
tăng
cường
đầu
tư
để
đẩy
nhanh
tiến
độ
các
công
trình,
dự
án
trọng
điểm
quốc
gia
trên
địa
bàn;
sớm
ban
hành
Chiến
lược
phát
triển
kinh
tế-xã
hội
của
thành
phố
Hà
Nội
đến
năm
2030
và
tầm
nhìn
đến
năm
2050.
Định
kỳ
hằng
năm,
Thường
trực
Chính
phủ
chủ
trì
cùng
với
các
bộ,
ngành
làm
việc
với
Hà
Nội
để
kiểm
điểm,
đánh
giá
tiến
độ
thực
hiện
Nghị
quyết.
5-
Các
bộ,
ban,
ngành
Trung
ương
phối
hợp
với
Hà
Nội
xây
dựng
các
chương
trình,
kế
hoạch,
cơ
chế,
chính
sách
cụ
thể
để
triển
khai
thực
hiện
Nghị
quyết;
thường
xuyên
kiểm
tra,
phối
hợp,
giúp
Hà
Nội
tháo
gỡ
khó
khăn,
vướng
mắc
trong
quá
trình
xây
dựng
và
phát
triển.
6-
Ủy
ban
Trung
ương
Mặt
trận
Tổ
quốc
Việt
Nam,
các
đoàn
thể
Trung
ương
vận
động
các
thành
viên,
đoàn
viên,
hội
viên,
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức
và
người
lao
động
các
cơ
quan
Trung
ương
đóng
trên
địa
bàn
Hà
Nội
nghiêm
chỉnh
chấp
hành
chủ
trương,
đường
lối
của
Đảng,
pháp
luật
của
Nhà
nước,
các
quy
định
của
thành
phố,
có
trách
nhiệm
tham
gia,
đóng
góp
vào
quá
trình
xây
dựng
và
phát
triển
Thủ
đô.
7-
Các
tỉnh,
thành
phố
cùng
với
Hà
Nội
tăng
cường
các
hình
thức
liên
kết,
hợp
tác
phù
hợp
với
nhu
cầu
và
thế
mạnh
của
các
địa
phương,
tạo
sự
thống
nhất
và
sức
mạnh
chung
về
kinh
tế,
văn
hoá,
xã
hội,
quốc
phòng,
an
ninh
cho
Hà
Nội,
cho
mỗi
địa
phương,
cho
toàn
vùng
và
cả
nước.
8-
Hà
Nội
có
trách
nhiệm
chủ
động
phối
hợp
với
các
bộ,
ban,
ngành
có
liên
quan
sớm
nghiên
cứu,
đề
xuất
ban
hành
các
văn
bản
hướng
dẫn,
các
cơ
chế,
chính
sách
để
tổ
chức
thực
hiện
thắng
lợi
Nghị
quyết
của
Bộ
Chính
trị.
Tổ
chức
chỉ
đạo
thực
hiện
có
hiệu
quả
các
chương
trình,
kế
hoạch
và
nhiệm
vụ
phát
triển
hằng
năm,
các
chương
trình,
dự
án
trọng
điểm
trên
địa
bàn.
Đẩy
mạnh
việc
liên
doanh,
liên
kết
và
hợp
tác
với
các
địa
phương
trong
vùng
và
cả
nước,
với
các
đối
tác
nước
ngoài.
9-
Ban
Tuyên
giáo
Trung
ương
chủ
trì
hướng
dẫn
việc
tuyên
truyền,
quán
triệt
Nghị
quyết
của
Bộ
Chính
trị.
Văn
phòng
Trung
ương
Đảng
giúp
Bộ
Chính
trị,
Ban
Bí
thư
theo
dõi,
kiểm
tra,
sơ
kết,
tổng
kết
Nghị
quyết
của
Bộ
Chính
trị./.