Hai
con
số
1%
và
10%
ở
tựa
bài
viết
biểu
hiện
hai
động
thái
ngược
chiều
nhau
trong
việc
điều
hành
lãi
suất
và
giá
xăng
dầu.
Theo
tuyên
bố
chính
thức
của
Thống
đốc
Ngân
hàng
Nhà
nước
(NHNN),
tất
cả
các
loại
lãi
suất
chỉ
đạo
đã
đồng
loạt
giảm
1
điểm
phần
trăm.
Trước
đó,
trong
chiều
ngày
7-3,
giá
xăng
đã
được
liên
bộ
Tài
chính
-
Công
Thương
quyết
định
điều
chỉnh
tăng
thêm
10%,
tương
đương
2.100
đồng/lít
so
với
đầu
năm.
Cũng
cần
nói
thêm,
từ
đầu
năm
đến
nay
người
tiêu
dùng
đã
phải
gánh
chịu
một
đợt
tăng
giá
gas
rất
cao,
lên
đến
20%,
tương
đương
mức
tăng
thêm
120.000
đồng/bình.
Nếu
xét
về
chỉ
số
giá
tiêu
dùng,
đến
cuối
tháng
2-2012
CPI
tăng
2,38%
so
với
đầu
năm
và
tăng
16,44%
so
cùng
kỳ
năm
2011.
Tác
động
của
đợt
tăng
giá
xăng
dầu
đợt
này
sẽ
được
phản
ánh
vào
xu
hướng
giá
cả
trong
thời
gian
đến,
trước
mắt
là
CPI
của
tháng
3-2012.
Tuy
nhiên,
theo
đánh
giá
chung,
áp
lực
tăng
giá,
đặc
biệt
đối
với
một
số
mặt
hàng
chủ
chốt,
mang
tính
thiết
yếu
đến
đời
sống
đại
đa
số
người
dân,
vẫn
là
thách
thức
lớn
nhất
đối
với
nỗ
lực
kiềm
chế
lạm
phát,
bình
ổn
kinh
tế
vĩ
mô,
bảo
đảm
an
sinh
xã
hội
của
Chính
phủ.
Trong
bối
cảnh
nói
trên,
chủ
trương
kéo
giảm
lãi
suất
chỉ
đạo
xuống
1
điểm
phần
trăm
có
thể
xem
là
động
thái
hỗ
trợ
tháo
gỡ
khó
khăn
cho
nền
kinh
tế.
Xét
về
con
số,
đó
là
mức
giảm
khá
thấp,
nhưng
lại
rất
hợp
lý,
thể
hiện
sự
cẩn
trọng,
chặt
chẽ
của
NHNN
trước
xu
hướng
khó
dự
đoán
của
kỳ
vọng
lạm
phát
trong
thời
gian
đến.
Ý
nghĩa
của
thông
điệp
này
chính
là
ở
chỗ,
chúng
ta
không
bao
giờ
được
lơi
lỏng,
chủ
quan
trước
diễn
biến
tình
hình
vẫn
còn
nhiều
ẩn
số
phức
tạp,
cả
trong
và
ngoài
nước.
Đồng
thời,
cũng
không
nên
kỳ
vọng
quá
nhiều
vào
chủ
trương
giảm
lãi
suất,
xem
đó
như
“liều
thuốc
vạn
năng”
để
cứu
vãn
mọi
mong
muốn?
Một
khi
lãi
suất
giảm,
nhưng
giá
xăng
dầu
lại
tăng,
đồng
nghĩa
với
chi
phí
sản
xuất
sẽ
tiếp
tục
tăng
thêm,
áp
lực
trong
hoạt
động
sản
xuất
-
kinh
doanh
của
doanh
nghiệp
trước
mắt
vẫn
chưa
thể
có
sự
cải
thiện
theo
chiều
hướng
tích
cực.
Quyết
định
tăng
giá
xăng
dầu
vừa
qua
có
thể
là
việc
chẳng
đặng
đừng.
Theo
như
dự
báo,
lần
lượt
các
mặt
hàng
chủ
chốt
khác
như
điện/than/
xi
măng...
sẽ
lần
lượt
tăng
giá
theo
lộ
trình
“thị
trường
hóa”
đã
vạch
ra.
Tuy
nhiên,
như
dư
luận
đã
từng
trăn
trở
và
phê
phán,
công
tác
quản
lý
nhà
nước
trên
lĩnh
vực
xăng/dầu/gas
nói
riêng
và
các
lĩnh
vực
còn
mang
tính
độc
quyền
nhà
nước
khác
nói
chung,
yếu
tố
“lỗi
điều
hành”
(cơ
chế
quản
lý
thiếu
minh
bạch/kỷ
cương
buôn
bán
lỏng
lẻo/sự
thao
túng
của
thế
lực
độc
quyền
nhóm)
luôn
là
lý
do
chính
gây
bất
ổn
thị
trường,
làm
thiệt
hại
lớn
lợi
ích
người
tiêu
dùng.
Cần
thẳng
thắn
chỉ
ra
rằng
đây
chính
là
một
trong
những
nguyên
nhân
kích
thích
tâm
lý
bất
an,
khiến
cho
kỳ
vọng
lạm
phát
cao
có
thể
bùng
phát
trở
lại
bất
cứ
lúc
nào.
Mục
tiêu
kiềm
chế
lạm
phát
từ
nay
đến
cuối
năm
xem
ra
còn
rất
nhiều
việc
phải
làm,
nhưng
trên
hết
cần
phải
cân
nhắc
kỹ
lưỡng
mỗi
khi
ban
hành
các
quyết
định
có
liên
quan
đến
mặt
bằng
lãi
suất
và
giá
cả.
Nếu
đã
lựa
chọn
mục
tiêu
ưu
tiên
kiềm
chế
lạm
phát
thì
nhất
thiết
phải
chấp
nhận
đánh
đổi
để
thực
hiện
bằng
được
chủ
trương
đề
ra.
Giải
pháp
trước
mắt
là
giảm
tăng
trưởng
ở
mức
hợp
lý,
qua
đó
giảm
tổng
cầu
trong
nền
kinh
tế,
tác
động
nhằm
giảm
áp
lực
tăng
giá
vật
tư/năng
lượng/nhiên
liệu...
Kể
cả
gia
giảm
lộ
trình
“thị
trường
hóa”
các
mặt
hàng
chủ
chốt
để
góp
phần
ổn
định
kinh
tế
vĩ
mô,
bởi
lẽ
việc
tăng
giá
thiếu
cân
nhắc
trong
bối
cảnh
hiện
nay
chẳng
khác
gì
đổ
thêm
dầu
vào
lửa.
Năm
2012
là
năm
đầu
tiên
khởi
động
chủ
trương
tái
cấu
trúc
nền
kinh
tế
và
đổi
mới
mô
hình
tăng
trưởng,
đi
đôi
với
tái
cơ
cấu
hệ
thống
tài
chính
-
ngân
hàng
và
doanh
nghiệp
nhà
nước.
Đây
chính
là
“thời
điểm
vàng”
để
“đặt
mọi
bài
toán
lên
bàn”,
phân
tích
đúng
các
nguyên
nhân,
từ
đó
tiến
hành
đồng
bộ,
kiên
quyết
những
giải
pháp
cải
cách
thể
chế
quản
lý
nhà
nước
mang
tính
dài
hạn
và
có
hiệu
lực,
sớm
từ
bỏ
lề
lối
điều
hành
theo
kiểu
ngắn
hạn,
bị
động,
đối
phó
như
thời
gian
vừa
qua.