3
năm
và
10
năm
Trên
cánh
đồng
13ha
ở
xã
Tân
Lập,
huyện
Tân
Thạnh,
tỉnh
Long
An
(nằm
trong
vùng
Đồng
Tháp
Mười),
anh
Trần
Văn
Chín
cho
biết,
mặc
dù
Công
ty
cổ
phần
Giống
cây
trồng
miền
Nam
(SSC)
hợp
đồng
bảo
hiểm
và
bao
giá
khi
anh
trồng
giống
lúa
lai
KC06-1
vụ
đông
xuân
2014-2015,
nhưng
anh
vẫn
hồi
hộp
vì
đây
là
lần
đầu
tiên
anh
trồng
lúa
lai.
Thời
gian
đầu,
cây
lúa
phát
triển
không
khỏe
như
giống
đối
chứng
OM4900,
nhưng
sau
đó,
ưu
thế
của
giống
lúa
lai
KC06-1
phát
huy
hiệu
quả,
lượng
nhánh
sinh
sôi
mạnh
hơn,
giúp
số
bông
lúa
trên
bụi
nhiều
hơn,
hạt
chắc
hơn,
ít
hạt
lép.
Nhưng
điều
anh
ấn
tượng
là
giống
lúa
này
không
bị
bệnh
đạo
ôn,
loại
bệnh
phổ
biến
ở
vùng
đồng
bằng
sông
Cửu
Long.
Với
giống
lúa
đối
chứng
OM4900,
anh
phải
xịt
ba
lần
để
diệt
đạo
ôn
nhưng
với
KC06-1
không
cần
phun
dù
có
vài
điểm
bị
nhiễm
nhưng
rồi
biến
mất.
Ngay
cả
với
rầy
nâu,
vụ
đông
xuân
này
anh
phun
ba
lần
trên
giống
OM4900
nhưng
với
giống
KC06-1,
chỉ
phun
thuốc
một
lần
để
cắt
giai
đoạn
sinh
trưởng
rầy
nâu
trên
đồng
ruộng.
Còn
khoảng
10
ngày
nữa
mới
thu
hoạch,
nhưng
với
số
bông
và
độ
dài
bông
anh
tin
rằng
sẽ
thu
được
trên
10
tấn,
thậm
chí
11
tấn
lúa
tươi/ha
so
với
giống
lúa
thơm
OM4900
chỉ
khoảng
hơn
8
tấn
lúa
tươi/ha.
Trong
khi
đó
trà
lúa
KC06-1
của
bác
Nguyễn
Văn
Thắng
cùng
18
hộ
với
hơn
9ha
ở
ấp
Ngãi
Thạnh,
xã
Hiếu
Thuận,
huyện
Vũng
Liêm,
tỉnh
Vĩnh
Long
trồng
bên
cạnh
giống
đối
chứng
IR50404
(phổ
biến)
lại
tỏ
ra
ưu
thế
vượt
trội.
Nhiều
nơi
lúa
IR50404
bị
ngã
đổ
do
thân
bị
yếu,
trong
khi
với
giống
KC06-1
vẫn
đứng
vững
dù
số
tép
nhiều
hơn
và
mỗi
chùm
hạt
dài
hơn.
Lấy
ngẫu
nhiên
đếm,
số
hạt
KC06-1
mỗi
nhánh
gần
120
hạt
lại
chắc
so
với
gần
70
hạt
của
giống
IR50404.
Bác
Thắng
cho
biết,
cả
vụ
không
phun
thuốc
trị
bệnh
đạo
ôn
so
với
ba
lần
phun
thuốc
trên
giống
IR50404.
Trên
con
đường
gập
ghềnh
vào
sâu
vùng
tứ
giác
Long
Xuyên,
huyện
Hòn
Đất,
tỉnh
Kiên
Giang
là
cánh
đồng
lúa
200ha,
anh
Nguyễn
Thành
An
dành
20ha
trồng
giống
lúa
lai
F1
KC06-1,
10ha
giống
thương
phẩm
KC06-1,
còn
lại
trồng
chủ
yếu
lúa
Nhật
Bản,
loại
hạt
tròn
cho
một
doanh
nghiệp
đã
hợp
đồng
để
xuất
khẩu.
Anh
An
nhìn
nhận,
giống
lúa
lai
này
về
năng
suất,
độ
thơm,
kháng
sâu
bệnh
và
chịu
phèn
mặn
đều
tốt
hơn
giống
đối
chứng.
Thạc
sĩ
Dương
Thành
Tài,
Phó
Tổng
Giám
đốc
SSC,
người
chịu
trách
nhiệm
thực
hiện
cho
biết,
đề
tài
KC06.24/11-15
làm
theo
đơn
đặt
hàng
của
Bộ
Khoa
học
-
Công
nghệ,
từ
năm
2013
đến
2015
với
yêu
cầu,
phải
tạo
ra
giống
lúa
lai
F1
không
chỉ
năng
suất
cao,
hạt
dài,
ít
bạc
bụng,
kháng
sâu
bệnh
mà
còn
phải
thơm,
đủ
tiêu
chuẩn
xuất
khẩu
và
phải
có
quy
trình
sản
xuất
giống
F1
ổn
định.
Thật
không
dễ
dàng
trong
thời
gian
chỉ
3
năm
có
thể
tạo
ra
giống
lúa
lai
với
hàng
loạt
yêu
cầu
như
vậy.
Để
nhận
đề
tài
hóc
búa
này,
SSC
và
bản
thân
ông
Dương
Thành
Tài
đã
phải
nghiên
cứu,
chọn
lọc,
sưu
tầm
để
có
nguồn
gen
nguyên
liệu
như
trên
trong
10
năm.
Triển
vọng
cho
vùng
lúa
ĐBSCL
Dù
sau
vụ
hè
thu
2015
mới
đủ
4
vụ
trồng
liên
tiếp
cho
việc
đánh
giá
và
nghiệm
thu
đề
tài,
nhưng
người
trong
cuộc
hiểu
rằng,
đề
tài
KC06.24/11-15
đã
đi
đúng
hướng.
Tuần
qua,
tại
buổi
hội
thảo
đề
tài
này
ở
huyện
Tri
Tôn,
tỉnh
An
giang,
mùi
cơm
từ
hạt
gạo
KC06-1
đang
nấu
thơm
lừng
cả
hội
trường
làm
mọi
người
cồn
cào
khi
quá
buổi
trưa.
Theo
ông
Trần
Quang
Giàu,
Chi
cục
trưởng
Chi
cục
Bảo
vệ
thực
vật
Kiên
Giang,
vụ
đông
xuân
lạnh,
nhiều
sương
mù
làm
bệnh
đạo
ôn
phát
triển,
các
giống
lúa
thuần
tốn
chi
phí
khá
cao
để
phòng
trị,
nhưng
các
giống
KC06
không
sử
dụng
thuốc,
chứng
tỏ
kháng
cao.
Lúa
vẫn
phát
triển
trên
vùng
đất
phèn
nặng,
có
khả
năng
phát
triển
vùng
tứ
giác
Long
Xuyên
và
bán
đảo
Cà
Mau.
GS-TS
Bùi
Thị
Trâm,
nhà
lai
tạo
lúa
lai
nổi
tiếng
cho
rằng,
các
giống
KC06(-1,-2,-3…)
chứng
minh
lúa
lai
không
chỉ
phù
hợp
ở
vùng
ôn
đới
mà
cả
vùng
nhiệt
đới
nếu
kiên
trì
nghiên
cứu
lai
tạo.
Các
giống
này
chống
chịu
sâu
bệnh,
phèn
mặn
tốt
mở
ra
triển
vọng
trong
bối
cảnh
biến
đổi
khí
hậu
ngày
càng
ảnh
hưởng
lớn
đến
sản
xuất
nông
nghiệp,
nhất
là
vùng
ĐBSCL
khi
giống
này
cho
thấy
tiềm
năng
đưa
vào
vùng
phèn
mặn
vừa
mới
khai
hoang.
Ông
Nguyễn
Quốc
Lý,
Giám
đốc
Trung
tâm
Khảo
kiểm
nghiệm
giống
và
sản
phẩm
cây
trồng
phía
Nam,
cho
rằng,
trong
5
dòng
của
KC06,
có
3
dòng
là
giống
trung
bình
sớm
KC06-1,
-2,
-3,
nên
có
đối
chứng
với
giống
ST
(loại
gạo
thơm
xuất
khẩu).
Riêng với nhóm ngắn ngày KC06-4, -5 so sánh với IR 50404. PGS-TS Trần Duy Quý, Thư ký Ban Chủ nhiệm Chương trình KC06, Văn phòng Ban Chủ nhiệm chương trình Bộ KH-CN cho biết, đề tài này rất khó, đây là kết quả từ quá trình nghiên cứu lâu năm. 5 giống của SSC đưa ra khảo nghiệm đảm bảo đúng mục tiêu đề tài là năng suất cao, chất lượng tốt, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu và chống chịu được một số sâu bệnh phổ biến. Tất cả mô hình đều đáp ứng yêu cầu. Hy vọng sẽ chọn ra được 2 giống để có thể đưa vào sản xuất đại trà như các giống lúa thuần cho vùng ĐBSCL.
Nguồn tin: Hà Nội mới
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Đang truy cập : 116
•Máy chủ tìm kiếm : 9
•Khách viếng thăm : 107
Hôm nay : 25373
Tháng hiện tại : 922713
Tổng lượt truy cập : 44290398