Anh
Nguyễn
Quang,
chủ
một
tiệm
bánh
ở
Thủ
Đức
bị
vợ
sai
lên
tận
chợ
Hoà
Bình
(quận
5)
mua
miếng
thịt
heo
VietGAP,
sau
khi
nghe
một
người
bạn
nói:
“Luộc
miếng
thịt
thơm,
mỡ
săn
chắc,
không
sủi
bọt,
nước
không
đục.
Giống
như
ăn
miếng
thịt
heo
hồi
xưa
ở
quê”.
Việc
người
dân
xếp
hàng
mua
thịt
heo
VietGAP
ở
chợ
Hoà
Bình.
Rồi
các
doanh
nghiệp
nhảy
vào
tranh
mua
heo
VietGAP
ở
các
trang
trại
trên
Củ
Chi
chứng
tỏ
sản
phẩm
sạch
là
có
thị
trường,
nếu
doanh
nghiệp
tạo
dựng
được
niềm
tin
nơi
người
tiêu
dùng.
Một
loại
cà
tím
giống
mới
ở
một
nông
trại
tại
Lâm
Đồng.
Đa
dạng
hóa
sản
phẩm
để
mở
thị
trường
mới
cũng
đang
là
xu
hướng.
Ảnh:
Ngọc
Bích
Có
thị
trường
Bà
Nguyễn
Thị
Hồng
Thắm,
giám
đốc
công
ty
An
Hạ,
doanh
nghiệp
đầu
tiên
đưa
thịt
heo
VietGAP
đến
tay
người
tiêu
dùng
TP.HCM,
cho
biết
dù
là
một
công
ty
nhỏ,
nhưng
An
Hạ
vẫn
cạnh
tranh
được
và
có
hướng
đi
bền
vững
khi
không
chỉ
ra
chợ,
sản
phẩm
còn
được
đưa
vào
các
nhà
hàng,
khách
sạn,
bếp
ăn
tập
thể.
Làm
VietGAP
mỗi
trại
cũng
chỉ
chừng
400
–
500
con.
Các
công
ty
lớn
không
theo
được
để
mua.
Mua
qua
thương
lái
thì
không
đúng
quy
trình,
bởi
không
chắc
thương
lái
có
trộn
heo
thường
với
heo
VietGAP
hay
không.
“Nhưng
An
Hạ
lại
theo
được
để
mua,
xét
nghiệm
lại
trước
khi
giết
mổ,
trước
thực
tế
không
biết
người
nuôi
thỉnh
thoảng
có
lén
bỏ
thuốc
cấm
vô
thức
ăn
không”,
bà
Thắm
nói.
Chính
sự
cẩn
thận
này
đã
đảm
bảo
chất
lượng
cho
miếng
thịt
heo
của
An
Hạ,
và
người
tiêu
dùng
tin
tưởng
sau
khi
dùng
thử.
Thịt
VietGAP
bán
chạy,
các
công
ty
lớn
lĩnh
vực
phân
phối
nhảy
vào
tranh
mua.
Dù
An
Hạ
hiện
đang
gặp
trục
trặc
ở
khâu
phân
phối
khi
các
doanh
nghiệp
lớn
tranh
mua,
nhưng
thực
tế
của
An
Hạ
cho
thấy
nhu
cầu
của
thị
trường
là
rất
lớn,
vấn
đề
là
phải
tạo
được
niềm
tin
của
người
tiêu
dùng.
Ông
Đoàn
Hữu
Đức,
tổng
giám
đốc
công
ty
AVC,
cũng
cho
biết
đã
hợp
tác
với
các
đầu
bếp
khách
sạn
lớn
dùng
nguyên
liệu
sạch
Việt
Nam
chế
biến
những
món
ăn
vào
khách
sạn
5
sao
để
sản
phẩm
có
giá
trị
cao.
Ông
cho
biết
sẽ
đi
tiếp
đầu
tư
vào
những
nông
dân
sản
xuất
nhỏ
nhưng
làm
hàng
sạch
giá
trị
cao,
bán
giá
cao.
Rõ
ràng,
đây
là
hướng
đi
mà
cho
dù
có
mở
cửa,
các
tập
đoàn
lớn
nước
ngoài
cũng
không
thể
cạnh
tranh
được.
Công
ty
cổ
phần
TM
&
SX
Viễn
Phú
là
doanh
nghiệp
nổi
tiếng
với
việc
cung
cấp
thực
phẩm
hữu
cơ
có
chứng
nhận
từ
các
tổ
chức
quốc
tế
với
thương
hiệu
HoaSuaFoods.
Từ
vùng
đất
hoang
U
Minh
Hạ
phèn
trắng,
cá
không
sống
được,
nước
trong
veo
nhìn
thấy
đáy
sâu
3
–
4
thước.
Sau
sáu
năm
đầu
tư
hạ
tầng,
cải
tạo
đất,
cá
sống
được,
cây
cỏ
mọc
được
và
cho
ra
những
sản
phẩm
hữu
cơ
như
gạo,
rau
quả,
thuỷ
sản.
Sản
phẩm
HoaSuaFoods
bán
trong
chuỗi
cửa
hàng
thực
phẩm
hữu
cơ
HoaSuaFoods
Market
&
Bistro
và
đã
xuất
khẩu
được
sang
các
thị
trường
khó
tính
như
Anh,
Mỹ…
Ông
Võ
Minh
Khải,
giám
đốc
Viễn
Phú,
nhận
xét:
“Qua
thực
tế
tiếp
cận,
tôi
thấy
nhu
cầu
về
sản
phẩm
hữu
cơ
của
thị
trường
trong
nước
là
rất
cao,
chứ
không
chỉ
xuất
khẩu”.
DNTN
Cỏ
May
chuẩn
bị
đưa
ra
thị
trường
sản
phẩm
nấm
rơm
“lớn
như
cái
tách”
vào
tháng
1.2016.
Ông
Phạm
Minh
Thiện,
giám
đốc
kinh
doanh
DNTN
Cỏ
May,
cho
biết:
“Nấm
được
nuôi
trồng
trong
nhà
kính,
trồng
trên
loại
rơm
mua
từ
vùng
lúa
VietGAP,
được
hấp
và
xử
lý
vôi.
Ăn
êm
lắm,
có
hương
vị
đặc
trưng.
Chúng
tôi
đã
kiểm
tra
sản
phẩm
ở
nước
ngoài
và
kết
quả
là
sản
phẩm
không
nhiễm
kim
loại
nặng
hoặc
chỉ
nhiễm
ở
mức
cho
phép”.
Làm
nấm
rơm
mở
ra
cơ
hội
nữa
là
sau
khi
trồng
xong
thì
có
rơm
sạch
làm
phân.
“Và
chúng
tôi
sẽ
nghiên
cứu
làm
đất
sạch
xuất
khẩu”.
Các
doanh
nghiệp
tham
dự
toạ
đàm
đều
đồng
ý
rằng,
áp
dụng
công
nghệ
có
thể
giúp
sản
phẩm
đẹp,
gia
tăng
năng
suất,
giảm
chi
phí
nhưng
sản
phẩm
làm
ra
không
phải
là
sạch.
Và
nếu
chỉ
như
thế
thì
không
thể
cạnh
tranh
với
các
nước.
Bởi
hiện
nay
về
nông
sản
cung
đã
vượt
cầu.
Nhưng
thiếu
cái
người
ta
cần
là
sản
phẩm
sạch
có
tiêu
chuẩn.
Công
nghệ
hữu
cơ
không
phải
là
cao
siêu
và
nếu
Việt
Nam
làm
thì
chi
phí
sẽ
thấp
hơn
các
nước,
và
cánh
cửa
thị
trường
sẽ
mở
ra.
Doanh
nghiệp
đơn
độc
“317
hecta
nông
trại
của
chúng
tôi
chỉ
là
mô
hình
mẫu
để
chuyển
giao
cho
nông
dân
làm
theo
và
mô
hình
có
thể
nhân
rộng
lên
vài
chục
ngàn
hecta.
Muốn
thành
công
thì
phải
làm
lớn.
Mà
làm
lớn
thì
phải
đầu
tư”,
ông
Khải
nói.
Ông
Khải
cho
biết
từng
thất
bại
tám
năm
khi
ông
đi
“dụ”
nông
dân
làm:
“Chúng
tôi
ra
sản
phẩm
sạch,
nhưng
“da
beo”,
không
chứng
nhận
quốc
tế
được”.
Đây
là
khó
khăn
chung
của
nhiều
doanh
nghiệp
trong
sản
xuất
sạch,
bởi
cần
vùng
đệm
an
toàn
trong
tiêu
chí
đánh
giá.
Do
vậy,
ông
Khải
phải
làm
lớn.
Câu
chuyện
của
ông
Khải
lại
gợi
ra
vấn
đề
quy
hoạch
và
hạn
điền.
Nếu
Nhà
nước
muốn
sản
xuất
sạch,
cần
hỗ
trợ
doanh
nghiệp.
Có
chính
sách,
thì
cần
thực
thi.
Nghị
định
61
của
Chính
phủ
nêu
rõ
khuyến
khích,
ưu
đãi
nhà
đầu
tư
trong
vùng
đặc
biệt
khó
khăn,
được
ưu
tiên
tiếp
cận
vốn...
Vậy
mà
ông
Khải
nói:
“Từ
lúc
làm
tới
nay,
chúng
tôi
không
vay
được
đồng
nào”.
Ông
Bùi
Phong
Lưu,
giám
đốc
công
ty
Bùi
Văn
Ngọ,
cũng
nói:
“Chính
phủ
có
nhiều
chính
sách
nhưng
không
thực
hiện.
Chẳng
hạn,
không
ai
vay
được
tiền
làm
xay
xát
lúa…”
Từ
thực
tế
của
mình,
ông
Khải
cho
rằng:
“Để
hội
nhập
thành
công,
không
phải
vấn
đề
kỹ
thuật,
cũng
không
phải
vấn
đề
thị
trường,
mà
là
chính
sách”.
Nếu
Nhà
nước
muốn
phát
triển
nông
sản
sạch,
vừa
phục
vụ
người
dân
trong
nước,
vừa
vượt
rào
cản
kỹ
thuật
của
TPP
hay
FTA
với
EU,
thì
phải
hành
động.
Nếu
có
chính
sách
cụ
thể,
dòng
chảy
đầu
tư
sẽ
đổ
vào
sản
xuất
nông
sản
sạch.
Kim
Văn
–
Hoàng
Bảy
theo
báo
xuân
Thế
giới
tiếp
thị