Nhằm
triển
khai
Đề
án
Tái
cơ
cấu
ngành
nông
nghiệp
trong
bối
cảnh
ngành
chăn
nuôi
được
dự
báo
sẽ
phải
đương
đầu
với
nhiều
thách
thức
khi
Việt
Nam
gia
nhập
Hiệp
định
Đối
tác
Kinh
tế
Chiến
lược
xuyên
Thái
Bình
Dương
(TPP),
Đề
án
tái
cơ
cấu
ngành
chăn
nuôi
đang
được
Bộ
NN-PTNT
giao
Cục
Chăn
nuôi
rốt
ráo
hoàn
thiện,
sớm
phê
duyệt
trong
thời
gian
tới.
Về
quan
điểm
chung,
Đề
án
tái
cơ
cấu
ngành
chăn
nuôi
theo
hướng
nâng
cao
giá
trị
gia
tăng
và
phát
triển
bền
vững,
từ
nay
đến
năm
2020,
ngành
chăn
nuôi
nước
ta
sẽ
chú
trọng
vào
việc
phát
triển
những
sản
phẩm
có
tiềm
năng
và
lợi
thế
nhằm
tăng
sức
cạnh
tranh,
đáp
ứng
nhu
cầu
trong
nước
và
tăng
cường
XK,
gắn
với
bảo
vệ
môi
trường
sinh
thái.
Việc
tổ
chức
lại
SX
theo
chuỗi
giá
trị
thông
qua
liên
kết
SX,
đảm
bảo
mục
tiêu
cơ
bản
về
phúc
lợi
cho
người
CN
được
xem
là
một
giải
pháp
quan
trọng
trong
quá
trình
triển
khai
đề
án.
Tinh
thần
của
đề
án
tiếp
tục
định
hướng
chuyển
dần
phương
thức
chăn
nuôi
của
Việt
Nam
từ
nông
hộ
sang
trang
trại.
Cụ
thể
đến
năm
2020,
đặt
mục
tiêu
đưa
chăn
nuôi
trang
trại
lên
áp
đảo
(số
đầu
lợn
trang
trại
tăng
từ
30%
hiện
nay
lên
52%
năm
2020;
gà
trang
trại
từ
30%
lên
60%;
vịt
từ
20%
lên
60%...).
Nội
dung
Đề
án
đặt
ra
rất
nhiều
mục
tiêu
cụ
thể
đối
với
6
nhóm
đối
tượng
vật
nuôi
chính,
trong
đó
chăn
nuôi
lợn,
thủy
cầm
và
bò
sữa
được
gánh
trên
vai
nhiệm
vụ
phải
tăng
tốc
đột
phá
từ
nay
đến
năm
2020.
Cụ
thể
về
chăn
nuôi
lợn,
đề
án
đặt
mục
tiêu
nâng
sản
lượng
thịt
lợn
xuất
chuồng
từ
3,2
triệu
tấn
hiện
nay
lên
từ
4,7
đến
5
triệu
tấn
–
chiếm
60%
tỉ
trọng
sản
lượng
thịt
cả
nước
vào
năm
2020.
Trong
đó,
thịt
lợn
được
kỳ
vọng
sẽ
là
sản
phẩm
chăn
nuôi
ít
ỏi
của
Việt
Nam
có
thể
XK
trong
giai
đoạn
tới,
với
mục
tiêu
XK
1
triệu
tấn
thịt
hơi,
chủ
yếu
sang
thị
trường
Trung
Quốc.
Vùng
chăn
nuôi
lợn
trọng
điểm
chuyển
dần
từ
vùng
đồng
bằng
ven
biển
dịch
lên
phía
tây,
gồm
các
vùng
Trung
du
MNPB
và
Tây
Nguyên,
kết
hợp
với
hai
vùng
truyền
thống
là
Đông
Nam
bộ
và
ĐBSH.
Tăng
cường
tỉ
lệ
thụ
tinh
nhân
tạo
đạt
60%
vào
năm
2020
được
xem
là
một
trong
những
giải
pháp
quan
trọng
chính
trong
mục
tiêu
phát
triển
đàn
lợn.
Đối với chăn nuôi gia cầm, đề án đặt mục tiêu nâng tổng đàn vịt từ khoảng 70 – 80 triệu con hiện nay lên 100 triệu con vào năm 2020. Trong đó, vịt đẻ trứng từ 29 triệu con lên 50 triệu con, với sản lượng trứng đạt 8 tỉ quả/năm, trong số này cố gắng dành 3 triệu quả trứng cùng 100 nghìn tấn thịt vịt (chiếm 40%) để dành cho XK. Về chăn nuôi gà, gà lông trắng được chủ trương duy trì ổn định cơ cấu, trong khi gà lông màu, gà thả vườn sẽ tăng tỉ trọng từ 50% hiện nay lên 60% vào năm 2020. Các vùng nuôi vịt trọng điểm ngoài ĐBSCL, ĐBSH, còn được xác định vùng Đông Nam bộ và cả vùng Trung du MNPB. Vùng ĐBSH và Trung du MNPB cũng được xác định là hai vùng nuôi gà trọng điểm.
Về
chăn
nuôi
bò,
đề
án
chỉ
đặt
mục
tiêu
khiêm
tốn
khi
đến
năm
2020,
sản
lượng
thịt
bò
cố
gắng
chiếm
10%
tổng
sản
lượng
thịt.
Ba
giống
bò
bản
địa
gồm
bò
vàng,
bò
đầu
rìu
và
bò
H’mông
sẽ
được
lưu
giữ
chọn
lọc
phục
vụ
cho
chủ
trương
cải
tạo
đàn
bò
theo
hướng
Zebu
hóa,
chuyên
thịt
và
nâng
cao
tỉ
lệ
máu
ngoại
của
đàn
nái...
Trong
khi
đó,
bò
sữa
được
kỳ
vọng
sẽ
tăng
số
lượng
đột
biến
với
mục
tiêu
tăng
từ
180
nghìn
con
hiện
nay
lên
trên
500
nghìn
con,
với
sản
lượng
sữa
đạt
1,3
triệu
tấn
trong
5-6
năm
nữa.
Năng
suất
sữa
được
hi
vọng
là
sẽ
cán
đích
6
tấn/con/chu
kỳ
trước
năm
2020.
Ngoài
các
đối
tượng
vật
nuôi
chủ
lực
trên,
đề
án
cũng
chủ
trương
tiếp
tục
duy
trì
và
khuyến
khích
các
đối
tượng
nuôi
có
tiềm
năng
như
trâu,
dê,
cừu,
thỏ,
ong.
Để
thực
hiện
cuộc
tái
thiết
ngành
chăn
nuôi
đến
năm
2020,
Đề
án
của
Cục
Chăn
nuôi
dự
toán
tổng
số
vốn
đầu
tư
giai
đoạn
2014-2020
sẽ
lên
tới
khoảng
74,1
nghìn
tỉ
đồng,
trong
đó:
Vốn
ngân
sách
nhà
nước
6,5
nghìn
tỉ
đồng,
chiếm
8,8%
(gồm
1,2
nghìn
tỉ
đồng
của
TƯ
và
5,3
nghìn
tỉ
đồng
của
địa
phương);
vốn
đầu
tư
từ
khu
vực
kinh
tế
tư
nhân,
chủ
yếu
từ
DN
và
người
chăn
nuôi
là
66,9
nghìn
tỉ
đồng,
chiếm
90,2%;
vốn
từ
các
tổ
chức
quốc
tế
khoảng
0,7
nghìn
tỉ
đồng,
chiếm
1%.
Với
cú
hích
này,
Đề
án
đặt
mục
tiêu
đến
năm
2020
sẽ
tạo
được
sự
đột
phá
mạnh
mẽ,
tạo
ra
giá
trị
gia
tăng
khoảng
8
nghìn
tỉ
đồng/tổng
đầu
tư
74,1
nghìn
tỉ
đồng,
vực
dậy
sự
tăng
trưởng
cho
ngành
chăn
nuôi
Việt
Nam.
Một
số
chỉ
tiêu
đã
được
đặt
ra
như:
Số
đầu
lợn
xuất
chuồng
tăng
3,5%/năm
trong
giai
đoạn
2014-2020
(so
với
3,3%
giai
đoạn
2008-2013);
sản
lượng
thịt
tăng
bình
quân
5-6,5%/năm
(so
với
3%
giai
đoạn
2008-2013);
đàn
vịt
tăng
bình
quân
2,1%/năm
(so
với
0,8%
giai
đoạn
2008-2020);
chuyển
đổi
hơn
200
nghìn
ha
đất
nông
nghiệp
sang
trồng
cây
thức
ăn
gia
súc...
Ông Lê Bá Lịch – Chủ tịch Hiệp hội TĂCN VN: Sẽ sai lầm lớn nếu buông đại gia súc Công bằng mà nói, chăn nuôi những năm qua không phải là hoàn toàn thất bại khi hầu hết các sản phẩm chăn nuôi chủ lực vẫn đang đứng vững.
Xem qua đề án Tái cơ cấu ngành chăn nuôi, tôi thấy chăn nuôi đại gia súc gần như đã bị gạt ra rìa. Sẽ là sai lầm lớn nếu chúng ta buông chăn nuôi đại gia súc. Ngay trong tư duy cán bộ đầu ngành, tôi biết có lồng quan điểm xem đại gia súc của chúng ta là yếu thế và thể nào cũng bị đánh bại bởi thịt bò Úc NK tràn vào khi gia nhập TPP.
Thực tế thì chưa gia nhập TPP, hiện cũng đã có hàng trăm nghìn con bò Úc được NK về, nhưng nếu vì sợ họ mà “bỏ trận địa”, buông chính sách cho nuôi bò thịt sẽ càng tai hại.
Chưa tính các nước phát triển, tính trung bình nhu cầu thế giới, cơ cấu tiêu dùng thịt bò hiện chiếm tới 25%, trong khi Việt Nam chỉ mới đặt mục tiêu khiêm tốn 10% vào năm 2020. Điều này ai cũng biết nhu cầu thịt bò tất yếu sẽ phải tăng lên khủng khiếp.
Về nhu cầu, hãy yên tâm là người Việt Nam sẽ vẫn sử dụng thịt tươi, chứ thịt đông lạnh NK chẳng thể nào thay thế. Khi mức tiêu thụ thịt của người Việt Nam đạt tới 40 kg/người/năm, chúng ta sẽ phải cần tới 3,6 triệu tấn thịt xẻ, và thịt bò sẽ ngày càng chiếm lĩnh tỉ lệ.
Lúc ấy nếu ta chỉ cần phải NK ½ lượng thịt bò, giá trị SX mà chúng ta mất đi sẽ vô cùng ghê gớm. Vậy sao lại buông chăn nuôi đại gia súc? Vấn đề về chất lượng, chúng ta hoàn toàn có thể cạnh tranh được với thịt bò NK nếu làm tốt khâu chọn giống. Ai dám nói chúng ta không có lợi thế chăn nuôi đại gia súc? Tại sao không rà soát lại xem Chương trình Zebu hóa đàn bò mà chúng ta triển khai hàng chục năm qua bây giờ đã đi tới đâu, làm được gì hay chưa, lỗi của ai khi để tỉ lệ lai hóa đàn bò ì ạch như bây giờ? |
Nông nghiệp Việt Nam
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Đang truy cập : 254
•Máy chủ tìm kiếm : 21
•Khách viếng thăm : 233
Hôm nay : 44800
Tháng hiện tại : 852064
Tổng lượt truy cập : 44219749