Công
nghiệp
sáng
tạo
và
phát
triển
kinh
tế
hiện
đại
Thứ
hai
-
31/10/2011
06:15
“Ngành
công
nghiệp
sáng
tạo”,
được
nước
Anh
định
nghĩa
năm
1998,
‘là
những
hoạt
động
bắt
nguồn
từ
sự
sáng
tạo,
kỹ
năng
và
năng
khiếu
của
cá
nhân
có
tiềm
năng
sáng
tạo
ra
của
cải,
việc
làm
qua
quá
trình
khai
thác
quyền
sở
hữu
trí
tuệ’
Ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
đang
ngày
càng
trở
thành
phần
quan
trọng
của
nền
kinh
tế
hiện
đại
dựa
vào
tri
thức
hậu
công
nghiệp.
Không
chỉ
ngành
này
được
xem
là
sẽ
giúp
tăng
trưởng
cao
hơn
tốc
độ
tăng
trưởng
trung
bình
và
tạo
việc
làm,
ngành
còn
là
phương
tiện
để
nhận
diện
bản
sắc
văn
hóa
của
mỗi
quốc
gia.
Trong
thập
kỷ
vừa
qua,
chính
phủ
một
số
nước
trên
thế
giới
đã
thừa
nhận
tầm
quan
trọng
của
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
trong
phát
triển
kinh
tế
và
bắt
đầu
đề
ra
những
chính
sách
cụ
thể
để
phát
triển
ngành.
Nhiều
chính
phủ
đã
thiết
lập
cơ
quan
phân
tích,
thống
kê
và
lập
bản
đồ
về
mối
quan
hệ
giữa
văn
hoá,
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
và
phát
triển
kinh
tế
để
cung
cấp
cho
các
quan
chức
ở
các
quốc
gia
này
dữ
liệu
thô
mà
họ
cần
để
lập
chính
sách.
Tuy
nhiên,
cho
đến
nay
lĩnh
vực
này
vẫn
chưa
được
hiểu
một
cách
đầy
đủ
và
nhiều
chính
phủ
còn
chưa
nhận
thức
được
tiềm
năng
của
nó.
Công
nghiệp
Văn
hóa
và
Công
nghiệp
sáng
tạo
“Công
nghiệp
văn
hóa"
là
thuật
ngữ
mới
đối
với
Việt
Nam
nhưng
không
xa
lạ
với
nhiều
nước
khác
trong
khu
vực.
Ngành
công
nghiệp
văn
hóa
là
thuật
ngữ
liên
quan
đến
các
ngành
kết
hợp
sáng
tạo,
sản
xuất
và
thương
mại
hóa
các
nội
dung
sáng
tạo
vô
hình
và
văn
hóa
trong
tự
nhiên.
Những
nội
dung
này
thường
được
bảo
vệ
bằng
bản
quyền
và
chúng
có
thể
được
thể
hiện
dưới
dạng
hàng
hóa
hoặc
dịch
vụ.
Nhìn
chung,
ngành
công
nghiệp
văn
hoá
bao
gồm
in
ấn,
xuất
bản
và
truyền
thông,
nghe
nhìn
và
các
xuất
phẩm
điện
ảnh
cũng
như
ngành
thủ
công
và
thiết
kế.
Thuật
ngữ
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
có
phạm
vi
rộng
hơn,
bao
gồm
cả
công
nghiệp
văn
hoá
và
sản
xuất
có
tính
văn
hoá
và
mỹ
thuật,
dù
tồn
tại
hay
được
sản
xuất
như
một
sản
phẩm
riêng
lẻ.
Ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
là
những
ngành
trong
đó
các
sản
phẩm
hay
dịch
vụ
chứa
đựng
yếu
tố
hoạt
động
có
chủ
hướng
thiên
về
tính
mỹ
thuật
hay
sáng
tạo
và
bao
gồm
các
hoạt
động
như
kiến
trúc
và
quảng
cáo.
Ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
đã
được
một
số
quốc
gia
trên
thế
giới
xem
như
là
"kim
chỉ
nam"
cho
chính
phủ
để
định
hướng
phát
triển
kinh
tế,
văn
hóa,
xã
hội.
11
ngành
được
liệt
vào
danh
sách
này,
gồm:
quảng
cáo,
kiến
trúc,
giải
trí
kỹ
thuật
số,
mỹ
thuật
đồ
cổ
và
thủ
công
mỹ
nghệ,
thiết
kế
mỹ
thuật,
phim
ảnh
và
video,
in
ấn
xuất
bản,
âm
nhạc,
nghệ
thuật
biểu
diễn,
phát
thanh
truyền
hình
và
phần
mềm
vi
tính.
Kết
luận
Sự
nổi
lên
gần
đây
của
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
như
là
một
lĩnh
vực
riêng
với
sự
quan
tâm
của
các
nhà
kinh
tế,
nhà
thống
kê,
các
chuyên
gia
văn
hoá
và
các
nhà
hoạch
định
chính
sách
công
phản
ánh
nhận
thức
ngày
càng
tăng
về
tiềm
năng
kinh
tế
và
vai
trò
trong
việc
thúc
đẩy
sự
đa
dạng
văn
hoá
thông
qua
thị
trường
của
ngành
này.
Khái
niệm
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
cho
mục
đích
hoạch
định
chính
sách
công
vẫn
còn
rất
mới
mẻ
và
không
phải
tất
cả
các
chính
phủ
đều
thấy
được
sự
cần
thiết
của
việc
đưa
lĩnh
vực
này
vào
các
sáng
kiến
mục
tiêu.
Với
sự
ra
đời
của
nhiều
công
nghệ
mới
trong
20
năm
qua
như
internet,
thương
mại
điện
tử
và
tài
liệu
điện
tử,
việc
chia
sẻ,
kinh
doanh
và
tiêu
thụ
hàng
hoá
và
dịch
vụ
văn
hoá
trở
nên
dễ
dàng
hơn
bao
giờ
hết.
Toàn
cầu
hoá
đã
có
tác
động
sâu
sắc
đến
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo.
Để
khai
thác
cơ
hội
của
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo,
trước
hết
các
chính
phủ
cần
thực
hiện
triệt
để
việc
lập
bản
đồ
và
nghiên
cứu
thống
kê
để
hiểu
rõ
hơn
về
ngành
này.
Chính
phủ
Thái
Lan
đã
đẩy
mạnh
khái
niệm
“Nền
kinh
tế
sáng
tạo”
như
là
một
phần
quan
trọng
cho
sự
phát
triển
của
Thái
Lan.
Điều
này
được
thấy
rõ
trong
bản
dự
thảo
Kế
hoạch
Phát
triển
quốc
gia
lần
thứ
11
và
trong
9
chương
trình
của
chính
phủ
dành
cho
phát
triển
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
nằm
trong
gói
kích
cầu
thứ
2
(Thái
Kem
Kang).
Mục
tiêu
tập
trung
vào
nền
kinh
tế
sáng
tạo
để
đưa
Thái
Lan
trở
thành
trung
tâm
công
nghiệp
sáng
tạo
của
ASEAN
và
gia
tăng
tỷ
trọng
của
GDP
được
đóng
góp
từ
sáng
tạo
lên
20%
vào
năm
2012.
Không
chỉ
duy
nhất
Thái
Lan
chú
trọng
vào
nền
kinh
tế
sáng
tạo,
các
quốc
gia
khác
như
Anh,
Singapore,
Trung
Quốc
và
Ấn
Độ
đã
đề
ra
nhiều
chính
sách
hỗ
trợ
sáng
tạo
và
tài
nguyên
tri
thức.
Trong
năm
2008,
riêng
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
đóng
góp
hơn
1
nghìn
tỉ
baht
(32
tỉ
USD)
cho
nền
kinh
tế
của
Thái
Lan,
chiếm
gần
10%
tổng
GDP.
Trong
đó,
hai
ngành
công
nghiệp
đóng
góp
cao
là
trang
sức
(4,73%
GDP)
và
IT
(2,56%
GDP).
Giá
trị
gia
tăng
của
các
ngành
này,
không
kể
ngành
công
nghiệp
IT,
đạt
trên
325.274
triệu
baht
(9,7
tỉ
USD).
Trong
khi
tổng
việc
làm
trong
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
chỉ
khoảng
2,4%
trong
tổng
lực
lượng
lao
động,
giá
trị
gia
tăng
của
mỗi
lao
động
cao
cho
thấy
việc
làm
trong
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
được
trả
mức
lương
khá
cao.
Ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
cũng
góp
phần
đáng
kể
cho
xuất
khẩu
của
Thái
Lan,
đạt
gần
13
tỉ
USD
và
đưa
Thái
Lan
vào
top
20
nhà
xuất
khẩu
mặt
hàng
sáng
tạo
hàng
đầu
thế
giới.
Điều
quan
trọng
là
các
mặt
hàng
xuất
khẩu
sáng
tạo
này
có
mức
tăng
trưởng
ổn
định5%/năm,
cho
thấy
nhu
cầu
hàng
hoá
sáng
tạo
của
Thái
Lan
trên
thị
trường
toàn
cầu
mạnh.
Ngoài
ra,
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
của
Thái
Lan
cũng
kích
thích
các
ngành
khác
của
nền
kinh
tế
tăng
trưởng
theo,
với
nhân
tử
đầu
ra
trung
bình
lớn
hơn
mức
trung
bình
của
nền
kinh
tế.
Ngành
công
nghiệp
chiếu
bóng
đạt
mức
ấn
tượng
với
mỗi
baht
chi
tiêu
trong
lĩnh
vực
này
tạo
ra
hơn
2,14
baht
cho
nền
kinh
tế.
Các
ngành
công
nghiệp
khác
cũng
phụ
thuộc
đầu
vào
từ
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo,
có
tác
động
lớn
đối
với
các
ngành
như
sắt
và
phân
bón.
Tuy
nhiên,
phụ
thuộc
vào
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
rõ
ràng
nhất
là
lĩnh
vực
dịch
vụ,
với
hơn
6%
đầu
vào
của
ngành
này.
Lĩnh
vực
dịch
vụ
như
giáo
dục
và
bệnh
viện
phụ
thuộc
vào
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
với
gần
30%
đầu
vào.
Rõ
ràng
những
đóng
góp
của
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
vào
nền
kinh
tế
Thái
Lan
là
đáng
kể.
Tuy
nhiên,
so
với
các
nước
khác
như
Úc,
Singapore,
Mỹ,
Trung
Quốc,
Ấn
Độ,
Philippines,
những
quốc
gia
mà
Thái
Lan
đã
nghiên
cứu
để
so
sánh,
tác
động
cấp
số
nhân
của
Thái
Lan
là
thấp
hơn.
Điều
này
cho
thấy
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
của
Thái
Lan
có
chuỗi
giá
trị
không
phát
triển
tốt
bằng
các
nền
kinh
tế
phát
triển
hơn
như
Singapore.
Do
đó,
những
chuỗi
giá
trị
này
có
thể
đẩy
mạnh
sự
phát
triển
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
cũng
như
tăng
cường
đóng
góp
của
ngành
cho
nền
kinh
tế
tổng
thể.
Tỷ
lệ
giá
trị
gia
tăng
không
cao
hơn
nhiều
so
với
các
ngành
công
nghiệp
khác
cho
thấy
hoạt
động
nghiên
cứu
và
phát
triển
cũng
như
tính
sáng
tạo
cần
phải
được
hỗ
trợ
hơn
nữa
để
tăng
giá
trị
gia
tăng.
Những
đặc
điểm
chủ
yếu
của
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
Nhìn
chung,
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
có
những
đặc
điểm
chủ
yếu
sau
đây:
Tiên
phong
đổi
mới
Cốt
lõi
của
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
là
khả
năng
hiểu
biết
của
con
người,
các
ngành
công
nghiệp
mới
có
tính
sáng
tạo
và
sử
dụng
trí
óc
của
của
con
người
là
các
yếu
tố
chính
và
cốt
lõi
cho
sản
xuất.
Các
chuyên
gia
làm
việc
trong
lĩnh
vực
này
chủ
yếu
dựa
vào
sự
sáng
tạo,
ý
tưởng,
tài
năng
và
kỹ
năng
riêng
của
họ.
Do
đó,
văn
hoá
sáng
tạo
và
sản
phẩm
công
nghệ
được
kết
hợp,
tích
hợp
tính
sáng
tạo
đến
sản
phẩm,
thể
hiện
thông
qua
kiểu
dáng,
tính
năng
thông
minh,
ý
tưởng
nghệ
thuật
riêng
và
đang
dẫn
đầu
xu
hướng
mới
của
sản
xuất,
tiêu
thụ
và
dịch
vụ.
Ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
không
những
có
khả
năng
tồn
tại
lâu
dài
và
phát
triển
mà
còn
cho
thấy
đây
là
thị
trường
rộng
lớn
đầy
hứa
hẹn.
Nâng
cao
và
gia
tăng
giá
trị
gia
tăng
Ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
là
các
ngành
công
nghiệp
tập
trung
vào
tri
thức
và
có
giá
trị
gia
tăng
cao,
cốt
lõi
sản
xuất
bao
gồm
thông
tin,
kiến
thức,
công
nghệ,
trí
tuệ,
vv..,
đặc
biệt
là
tài
sản
vô
hình
như:
văn
hoá
và
công
nghệ;
chúng
cũng
là
một
phần
sâu
sắc
trong
cốt
lõi
của
xã
hội
hoá
sản
xuất.
Sáng
tạo
ở
đây
là
sự
pha
trộn
giữa
kỹ
thuật,
kinh
tế
và
văn
hoá.
Các
sản
phẩm
sáng
tạo
mang
nhiều
ý
tưởng,
hình
thức
công
nghệ
mới,
đặc
biệt
là
kỹ
thuật
số
được
pha
trộn
với
văn
hoá
và
nghệ
thuật.
Nó
cũng
là
sự
pha
trộn
và
tương
tác
phát
triển
của
kỹ
thuật
và
văn
hoá
vì
vậy
giá
trị
của
nó
không
chỉ
giới
hạn
ở
bản
thân
sản
phẩm
mà
còn
làm
tăng
giá
trị
gia
tăng
của
chúng.
Tiêu
thụ
điện
năng
thấp
và
thân
thiện
môi
trường
Theo
phương
thức
phát
triển
kinh
tế
truyền
thống,
việc
tiêu
thụ
quá
nhiều
năng
lượng,
làm
cho
gia
tăng
sự
cạn
kiệt
tài
nguyên
thiên
nhiên
và
môi
trường
ngày
càng
xấu
đi.
So
với
các
ngành
công
nghiệp
sản
xuất
truyền
thống,
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
không
gây
ô
nhiễm
và
là
ngành
công
nghiệp
sử
dụng
năng
lượng
thấp;
ngành
này
dựa
trên
các
hoạt
động
sáng
tạo
của
con
người
và
không
ảnh
hưởng
đến
nguồn
tài
nguyên
thiên
nhiên.
Môi
trường
sinh
thái
sẽ
không
bị
ô
nhiễm
vì
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
phát
triển
bền
vững.
Tiết
kiệm
không
gian
Ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
có
tính
tập
trung,
cơ
sở
mạng
lưới,
nhỏ
và
linh
hoạt.
Các
đặc
điểm
tập
trung,
mạng
lưới
có
nghĩa
là
sự
phát
triển
của
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
dựa
trên
sự
tác
động
qua
lại
của
tập
thể
và
sự
tập
trung
về
mặt
địa
lý
của
các
doanh
nghiệp,
tùy
vào
hoàn
cảnh
sẽ
hình
thành
nên
các
cụm
mà
sự
đa
dạng
và
văn
hoá
độc
đáo
của
từng
địa
phương
là
đặc
điểm
chính
của
chúng.
Ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
không
dành
cho
các
ngành
công
nghiệp
định
hướng
sử
dụng
các
loại
nguyên
vật
liệu
thô
truyền
thống,
mà
chúng
phụ
thuộc
nhiều
vào
mạng
lưới
công
nghệ
thông
tin,
thông
qua
công
nghệ
thông
tin,
thế
giới
trở
nên
ngày
càng
nhỏ
hơn.
Do
đó,
nguồn
tài
nguyên
ảo
là
không
giới
hạn,
vận
tải
thông
thường
sẽ
ít
đi,
tiết
kiệm
không
gian
trở
thành
xu
hướng
của
việc
hình
thành
các
công
ty.
Các
doanh
nghiệp
nhỏ
hoặc
thậm
chí
là
các
xưởng
phim
tư
nhân
nhỏ
và
linh
hoạt
hơn
có
thể
làm
việc
hiệu
quả
trong
thời
đại
của
sự
sáng
tạo.
Cao
cấp
Sự
phát
triển
của
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
là
kết
quả
của
việc
xây
dựng
lại
di
sản
văn
hoá
và
môi
trường
văn
hoá,
vì
thêm
vào
yếu
tố
văn
hoá,
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
đã
trở
thành
đại
diện
cho
cấp
độ.
Các
sản
phẩm
sáng
tạo
sử
dụng
trí
óc
tài
năng
sáng
tạo
thể
hiện
chất
lượng
và
vị
trí
cao.
Đồng
thời,
cùng
với
sự
phát
triển
của
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo,
một
số
lượng
lớn
nhân
viên
tri
thức
và
sáng
tạo
tập
hợp
lại,
mang
lại
nhiều
ý
tưởng
mới
trong
lĩnh
vực
này.
Họ
là
những
người
được
giáo
dục
tốt,
cùng
với
nhận
thức
văn
hoá
cao,
mức
độ
tiêu
thụ,
khái
niệm
mới,
trực
tiếp
hoặc
gián
tiếp
ảnh
hưởng
đến
văn
hoá,
thái
độ
và
tập
quán
của
người
dân
địa
phương.
Đây
là
ngành
xứng
đáng
để
nâng
cao
văn
hoá,
mức
sống
và
chất
lượng
trong
khu
vực.
Động
lực
hàng
đầu
Như
đã
nói
ở
trên,
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
là
sự
pha
trộn
giữa
kỹ
thuật,
kinh
tế
và
văn
hoá.
Nó
có
thể
thâm
nhập
vào
nhiều
lĩnh
vực
liên
quan,
giúp
phát
triển
các
ngành
này.
Do
đó
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
được
xem
là
ngành
dẫn
dắt
sự
phát
triển
cho
các
ngành
này,
đóng
vai
trò
quan
trọng
trong
việc
phát
triển
kinh
tế
địa
phương.
Đồng
thời,
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
của
các
ngành
công
nghiệp
sơ
khai
cũng
có
thể
đóng
vai
trò
trong
việc
lôi
cuốn
sự
tái
tổ
chức,
hình
thành
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
làm
cốt
lõi
của
toàn
bộ
chuỗi
công
nghiệp
và
hình
thành
sự
phát
triển
tương
tác
có
cơ
sở.
Do
đó,
ngành
công
nghiệp
sáng
tạo
có
thể
được
được
xem
như
là
“ngành
công
nghiệp
động
cơ”,
kích
thích
sự
phát
triển
kinh
tế
đất
nước.
PTT
(
theo
The
origin
of
explosive
development
of
Creative
industry
in
China)
Nguồn
tin:
ITPC