Stanley
Fischer,
người
trong
tháng
2
vừa
qua
vừa
thông
báo
sẽ
thôi
giữ
chức
Thống
đốc
NHTW
Israel,
là
một
trong
những
nhà
kinh
tế
học
xuất
sắc
nhất
còn
sống
trên
thế
giới.
Tháng
8
hàng
năm,
các
thống
đốc
NHTW
trên
khắp
thế
giới
tụ
họp
tại
vườn
quốc
gia
Grand
Teton
ở
Wyoming
và
thảo
luận
các
chuyên
đề
kinh
tế
vĩ
mô.
Cách
đây
một
vài
năm,
tại
một
trong
những
bữa
tiệc
tối,
Thống
đốc
Cục
dự
trữ
liên
bang
Mỹ
(Fed)
Ben
Bernanke
nhìn
vào
một
vài
đồng
nghiệp
xuất
sắc
trong
ngành
tài
chính
và
đưa
ra
câu
hỏi:
"Các
ông
có
biết
tất
cả
mọi
người
trên
bàn
tiệc
này
đều
có
1
điểm
chung?”.
“Tất
cả
đều
có
người
hướng
dẫn
luận
văn
tốt
nghiệp
là
Stan
Fischer”,
Bernanke
trầm
ngâm.
Stanley
Fischer,
người
trong
tháng
2
vừa
qua
vừa
thông
báo
sẽ
thôi
giữ
chức
Thống
đốc
NHTW
Israel,
là
một
trong
những
nhà
kinh
tế
học
xuất
sắc
nhất
còn
sống
trên
thế
giới.
Là
một
giáo
sư
công
tác
tại
Học
viện
công
nghệ
Massachusetts
MIT,
ông
là
người
đặt
nền
móng
cho
hệ
tư
tưởng
kinh
tế
học
thống
trị
nhiều
nền
kinh
tế.
Ông
cũng
là
cố
vấn
cho
một
đội
ngũ
sinh
viên
hùng
hậu
gồm
nhiều
“ngôi
sao
sáng”
đang
ngồi
ở
các
vị
trí
cấp
cao
và
hoạch
định
chính
sách
của
các
nền
kinh
tế
lớn.
Có
thể
kể
ra
những
cái
tên
nổi
bật
như
Chủ
tịch
Fed
Ben
Bernanke,
Chủ
tịch
NHTW
Châu
Âu
ECB
Mario
Draghi
và
cựu
chuyên
gia
kinh
tế
trưởng
của
Nhà
trắng
Greg
Mankiw.
Với
vị
thế
là
quan
chức
có
vị
trí
quan
trọng
số
2
ở
Quỹ
tiền
tệ
quốc
tế
IMF,
ông
đã
giúp
đỡ
các
nền
kinh
tế
châu
Á
vượt
qua
khủng
hoảng
năm
1998.
Với
cương
vị
là
Chủ
tịch
Citigroup,
ông
điều
hành
tất
cả
các
công
việc
liên
quan
đến
các
khách
hàng
đến
từ
khu
vực
công.
Khi
đó,
Citigroup
là
ngân
hàng
lớn
nhất
thế
giới.
Và,
năm
2005,
Phó
Thủ
tướng
Israel
Ariel
Sharon
cùng
với
Bộ
trưởng
Tài
chính
Benjamin
Netanyahu
đã
chọn
ông
làm
người
dẫn
dắt
NHTW
Israel
–
quốc
gia
mà
trước
đó
ông
mới
chỉ
đặt
chân
đến
1
lần.
Tuy
nhiên,
những
thành
tựu
mà
Fischer
đem
lại
là
quá
đủ
để
xua
tan
mọi
nghi
ngờ.
Không
có
quốc
gia
phương
Tây
nào
ứng
phó
với
cuộc
khủng
hoảng
tài
chính
toàn
cầu
giai
đoạn
2008
–
2009
tốt
hơn
Israel.
Nền
kinh
tế
Israel
chỉ
suy
giảm
đúng
1
quý
(giảm
0,2%
trong
quý
II/2009).
Trong
khi
đó,
kinh
tế
Mỹ
suy
giảm
tới
4,6%
trong
cùng
kỳ.
Tình
hình
ở
rất
nhiều
quốc
gia,
trong
đó
có
cả
Anh
và
Đức,
thậm
chí
còn
tồi
tệ
hơn.
Sẽ
không
phải
là
phóng
đại
khi
cho
rằng
người
Israel
tôn
sùng
Stan
Fischer.
Sau
khi
ông
thông
báo
về
quyết
định
từ
chức,
phóng
viên
Meirav
Arlosoroff
của
nhật
báo
Haaretz
miêu
tả
Fischer
là
“vị
lãnh
đạo
mà
công
chúng
Israel
hoàn
toàn
tin
tưởng”.
Cả
Bộ
trưởng
tài
chính
Netanyahu
và
vị
lãnh
đạo
đối
lập
Shelly
Yachimovich
đều
hết
sức
tự
hào
về
ông.
Ở
tuổi
69,
Fischer
dường
như
vẫn
đang
có
sức
khỏe
tốt.
Vào
tháng
1/2014,
người
học
trò
Bernanke
của
ông
sẽ
rời
khỏi
chiếc
ghế
thống
đốc
Fed.
Liệu
Fischer
có
chuyển
từ
Jerusalem
về
Washington
hay
không?
Điều
này
nghe
có
vẻ
điên
rồ
nhưng
cũng
không
phải
không
có
tiền
lệ.
Tháng
11
năm
ngoái,
Thống
đốc
NHTW
Canada
Mark
Carney
đã
chiến
thắng
trong
cuộc
đua
và
trở
thành
người
lãnh
đạo
của
NHTW
Anh.
Trong
thời
kỳ
hậu
khủng
hoảng
hiện
nay,
nước
Mỹ
cần
tới
1
thống
đốc
NHTW
hội
tủ
đầy
đủ
phẩm
chất
của
1
nhà
kinh
tế
học
đầy
sáng
suốt,
một
nhà
quản
lý,
nhà
ngoại
giao
và
cả
1
chính
trị
gia.
Fischer
là
ứng
viên
sáng
giá
cho
vị
trí
này.
San
bằng
khoảng
cách
Stan
Fischer
được
sinh
ra
tại
Mazabuka,
một
thị
trấn
nhỏ
ở
miền
Bắc
Rhodesia
(hiện
là
Zambia).
13
tuổi,
ông
chuyển
tới
Nam
Southern
Rhodesia
(nay
là
Zimbabwe)
và
sống
ở
đây
cho
đến
khi
theo
học
tại
Trường
kinh
tế
London
(LSE).
Ban
đầu,
Fischer
có
ý
định
theo
học
ngành
hóa
học.
Tuy
nhiên,
những
năm
tháng
cuối
cùng
ở
Zimbabwe
giúp
ông
phát
hiện
ra
kinh
tế
mới
là
niềm
đam
mê.
Anh
trai
của
1
người
bạn
của
ông
vừa
trở
về
từ
LSE
và
dạy
cho
ông
một
số
bài
học
về
kinh
tế.
Fischer
thực
sự
ấn
tượng
với
Paul
Samuelson
—
vị
giáo
sư
nổi
tiếng
đã
từng
đạt
giải
Nobel
của
MIT.
Cùng
thời
gian
đó,
Fischer
đọc
cuốn
“The
General
Theory
of
Employment,
Interest,
and
Money”
(tạm
dịch:
Lý
thuyết
chung
về
việc
làm,
lãi
suất
và
tiền
tệ)
của
John
Maynard
Keynes.
Sau
đó
Fischer
tới
MIT
để
học
tiến
sĩ,
lấy
bằng
3
năm
sau
đó
và
làm
công
việc
trợ
giảng
tại
đại
học
Chicago.
Khi
Fischer
tới
Hyde
Park
năm
1969,
ông
chứng
kiến
cuộc
tranh
cãi
nảy
lửa
giữa
1
bên
là
các
trường
ở
Chicago
cùng
các
trường
ở
quanh
khu
vực
Great
Lakes
(Carnegie
Mellon
hay
đại
học
Minnesota)
với
1
bên
là
các
trường
hùng
mạnh
ở
ven
biển
như
đại
học
California,
Harvard,
và
đặc
biệt
là
MIT.
Mâu
thuẫn
bắt
đầu
khi
Robert
Lucas
-
một
trong
những
đồng
nghiệp
của
Fischer
ở
trường
Chicago
–
lên
tiếng
chỉ
trích
học
thuyết
Keynes.
Theo
Lucas,
trường
phái
kinh
tế
học
Keynes
đã
phân
chia
kinh
tế
học
thành
2
bộ
phận:
kinh
tế
vi
mô
và
kinh
tế
học
vĩ
mô.
Trong
khi
kinh
tế
học
vi
mô
thừa
nhận
người
tiêu
dùng
và
các
doanh
nghiệp
thực
hiện
các
lựa
chọn
kinh
tế
với
mục
đích
tối
ưu
hóa
lợi
ích
của
họ,
kinh
tế
học
vĩ
mô
cho
rằng
sự
biến
động
của
nền
kinh
tế
chính
là
hệ
quả
của
những
lựa
chọn
từ
các
chủ
thể
trên.
Khi
người
tiêu
dùng
và
doanh
nghiệp
hoảng
loạn
ngừng
chi
tiêu,
suy
thoái
kinh
tế
xảy
ra.
Một
khi
họ
bình
tâm
lại,
nền
kinh
tế
sẽ
phục
hồi.
Tuy
nhiên,
Lucas
cho
rằng
điều
này
là
vô
nghĩa.
Tại
sao
lựa
chọn
dễ
biến
đổi
của
các
cá
nhân
lại
có
thể
tạo
nên
sự
thay
đổi
đối
với
toàn
bộ
nền
kinh
tế?
Các
học
thuyết
theo
trường
phái
Keynes
đã
gặp
nhiều
khó
khăn
khi
không
giải
thích
được
tình
trạng
nền
kinh
tế
tăng
trưởng
chậm
nhưng
lạm
phát
lại
ở
mức
cao
của
thời
kỳ
những
năm
1970.
Khi
đó,
Fischer
là
một
trong
số
ít
nhân
vật
có
thái
độ
chân
thành
với
cả
2
bên.
Ông
đang
ở
Chicago
khi
Lucas
đưa
ra
những
lời
chỉ
trích
nhưng
vẫn
có Samuelson
(giáo
sư
của
MIT)
trong
hội
đồng
phản
biện
luận
văn.
Năm
1972,
ông
trở
thành
đồng
nghiệp
của
Samuelson.
Các
sinh
viên
nhớ
về
Fischer
với
vai
trò
là
nhà
ngoại
giao
khá
xuất
sắc
trong
cuộc
chiến
này.
Ngày
nay,
nỗ
lực
gắn
kết
cả
2
cách
tiếp
cận
của
Fischer
được
biết
đến
với
tên
gọi
"kinh
tế
học
Keynes
mới".
Đây
là
cách
tiếp
cận
được
sử
dụng
rộng
rãi
ở
hầu
khắp
các
viện
nghiên
cứu
kinh
tế
trên
thế
giới.
Học
thuyết
này
cũng
gắn
liền
với
những
tên
tuổi
nổi
tiếng
như
Mankiw,
Bernanke,
chuyên
gia
kinh
tế
trưởng
của
IMF
Olivier
Blanchard...
Fischer
đã
viết
nên
một
trong
số
những
nghiên
cứu
đầu
tiên
bao
hàm
cả
yếu
tố
giá
cả
cứng
nhắc
và
kỳ
vọng
hợp
lý.
Theo
học
thuyết
này,
vì
thị
trường
có
tình
trạng
cạnh
tranh
không
hoàn
hảo,
nên
dù
thị
trường
có
biến
động
thì
chưa
chắc
các
doanh
nghiệp
đã
thay
đổi
giá
bán
của
mình.
Lý
do
là
chi
phí
để
điều
chỉnh
thông
báo
về
giá
bán
(giống
như
chi
phí
in
lại
thực
đơn)
có
thể
cao
hơn
lợi
ích
mà
doanh
nghiệp
thu
được
do
điều
chỉnh
giá.
Cuối
những
năm
1970,
ông
đã
giới
thiệu
cuốn "A
Monetary
History
of
the
United
States"
(tạm
dịch:
Lịch
sử
tiền
tệ
nước
Mỹ)
cho
nghiên
cứu
sinh
đang
được
ông
hướng
dẫn
làm
luận
văn
tiến
sĩ
xem
xét
cuốn
của
2
tác
giả
Friedman
và
Anna
Schwartz.
Cuốn
sách
này
cho
rằng
đáng
lẽ
Fed
đã
có
thể
giảm
bớt
sức
tàn
phá
của
Đại
khủng
hoảng
nếu
như
thực
hiện
chính
sách
tiền
tệ
quyết
liệt
hơn.
Và,
người
nghiên
cứu
sinh
ấy
chính
là
Ben
Bernanke.
Bernanke
cho
biết
nhờ
Fischer
mà
ông
nhận
ra
rằng
chính
sách
tiền
tệ
đóng
vai
trò
rất
quan
trọng.
Và,
vị
Chủ
tịch
của
Fed
đã
bơm
hàng
tỷ
USD
vào
nền
kinh
tế
lớn
nhất
thế
giới
để
có
thể
tránh
được
kịch
bản
giống
như
đại
suy
thoái.
Ông
học
được
điều
ấy
từ
Friedman
và
Schwartz,
thông
qua
Fischer.