Từ
năm
1971,
EU
đã
xây
dựng
các
quy
tắc
để
giúp
hàng
hóa
xuất
khẩu
từ
các
nước
đang
phát
triển
được
hưởng
những
ưu
đãi
về
thuế
khi
họ
xuất
hàng
sang
thị
trường
EU.
Điều
này
cho
phép
các
nước
đang
phát
triển
có
cơ
hội
tiếp
cận
thị
trường
EU
và
góp
phần
vào
sự
tăng
trưởng
nền
kinh
tế
của
họ.
Đề
án
này
được
gọi
là
“Hệ
thống
ưu
đãi
thuế
quan
(GSP)”.
Ngày 31/10/2012, Liên minh châu Âu (EU) đã chính thức công bố Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) sửa đổi và sẽ bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/2014. Theo đó, Việt Nam được hưởng chế độ GSP đối với tất cả các mặt hàng, kể cả những mặt hàng trước đã bị xếp vào nhóm hàng đã “trưởng thành” như giày dép, mũ nón, ô dù. Tuy nhiên, hệ thống GSP của EU đối với Việt Nam dự kiến sẽ chấm dứt khi Hiệp định thương mại tự do (FTA) Việt Nam – EU kết thúc đàm phán và bắt đầu có hiệu lực vào cuối năm 2016.
(Mức trưởng thành: ngưỡng quy định về thị phần hàng hóa tại thị trường châu Âu của một quốc gia)
Thị phần hàng hóa xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào EU sẽ tăng mạnh
Tại Hội thảo “Quy chế GSP mới của EU: Cơ hội tăng cường xuất nhập khẩu vào thị trường châu Âu” tổ chức ngày 25/02/2014, ông Trần Ngọc Quân – Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu ước lượng thị phần hàng hóa xuất khẩu chủ lực của Việt Nam theo quy chế mới như sau:
Nhóm chắc chắn đạt ngưỡng trưởng thành:
Cà phê, chè, gia vị: nếu áp dụng GSP mới, thị phần của cà phê Việt Nam sẽ tăng từ 12,11% hiện tại lên tới 21,68% - vượt ngưỡng trưởng thành.
Thủy sản: thị phần xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào EU có thể tăng từ 9,9% lên 19% - vượt ngưỡng trưởng thành.
Giày dép của Việt Nam vừa được EU cho hưởng lại GSP nhưng sau khi Trung Quốc không được hưởng GSP, thị phần nhóm hàng này đạt 34% - vượt ngưỡng trưởng thành.
Nhóm mặt hàng có nguy cơ chạm ngưỡng trưởng thành hoặc bị tự vệ:
Nhựa: Thị phần xuất khẩu nhựa vào EU có thể tăng từ 5,72% lên 16,04% và có nguy cơ chạm ngưỡng trưởng thành 17,5%.
Quần áo và hàng may mặc: thị phần có thể tăng từ 7,46% lên 10,5%. Tuy nhiên mức tăng trưởng xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào EU năm 2011 là 19%, nghĩa là có khả năng rơi vào ngưỡng tự vệ trong GSP.
Nhóm hàng có khả năng hưởng ưu đãi ổn định:
Gỗ và than từ gỗ: thị phần có thể tăng từ 1,39% lên 3,92%
Nguyên liệu dệt: thị phần có thể tăng từ 2,43% lên 3,89%
Hàng
điện
tử
(kể
cả
điện
thoại):
thị
phần
có
thể
lên
3,38%.
Ông Quân cũng đánh giá : “Mặc dù tiêu chí trưởng thành của EU nâng từ 15% lên 17,5% đối với các nhóm hàng hóa (trừ dệt may nâng từ 12,5% lên 14,5%) nhưng do rất nhiều nước đang phát triển có trình độ cao hơn Việt Nam không được hưởng ưu đãi từ GSP nữa nên thị phần hàng nhập từ Việt Nam sẽ tăng lên rất nhiều trong tổng nhập khẩu được hưởng GSP của EU và rất dễ đạt tới ngưỡng trưởng thành và không được hưởng ưu đãi nữa”.
“GSP
làm
nảy
sinh
tâm
lý
ỷ
lại,
không
tạo
sức
ép
để
tái
cơ
cấu
nền
kinh
tế
…”
Rõ ràng GSP đem lại cho DN Việt Nam rất nhiều thuận lợi. Hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam sẽ có những ưu đãi về thuế khi nhập khẩu vào các nước có chế độ GSP trên cơ sở đơn phương (không đòi hỏi có đi, có lại). Tức là họ tao điều kiện thuận lợi cho hàng hóa của Việt Nam nhập vào thị trường của họ mà không đòi hỏi yêu cầu ngược lại.
Ông
Claudio
Dordi
(thuộc
EU-MUTRAP
–
Dự
án
Hỗ
trợ
chính
sách
Thương
mại
và
Đầu
tư
của
châu
Âu)
nhấn
mạnh
sự
khác
biệt
này
của
GSP
với
FTA
khi
FTA
là
một
hiệp
định
được
ký
kết
giữa
2
bên,
quy
định
quyền
lợi
và
nghĩa
vụ
của
cả
2
bên
liên
quan.
Theo
đó,
GSP
là
cách
mà
EU
giúp
đỡ
cho
những
nước
đang
phát
triển
như
Việt
Nam
tăng
trưởng
kinh
tế.
Việc
có
ưu
đãi
thuế
quan
trên
thị
trường
châu
Âu
cũng
tạo
ra
một
lợi
thế
cạnh
tranh
cho
các
doanh
nghiệp
dệt
may
Việt
Nam,
đặc
biệt
khi
đối
thủ
cạnh
tranh
chính
của
Việt
Nam
hiện
nay
là
Trung
Quốc
đang
bị
áp
thuế
MFN
(hơn
GSP
trung
bình
3%).
Thay
vì
đặt
các
đơn
hàng
ở
Trung
Quốc,
các
khách
hàng
sẽ
lựa
chọn
Việt
Nam
để
đặt
hàng
vì
họ
sẽ
được
giả
thuế
nhập
khẩu
khi
các
DN
Việt
Nam
xuất
hàng
sang
châu
Âu.
Tuy
nhiên,
lợi
thế
cạnh
tranh
do
GSP
đem
lại
không
mang
tính
bền
vững
vì
việc
đáp
ứng
được
các
quy
tắc
của
GSP
và
thời
hạn
có
hiệu
lực
của
GSP
không
phải
là
mãi
mãi.
Lợi
thế
cạnh
tranh
do
GSP
mang
lại
là
lợi
thế
ngoại
sinh,
không
phải
là
nội
sinh.
Như
ông
Trương
Đình
Tuyển
phát
biểu
tại
Hội
thảo
này,
“GSP
làm
nảy
sinh
tâm
lý
ỷ
lại,
không
tạo
sức
ép
để
tái
cơ
cấu
nền
kinh
tế
và
chuyển
đổi
mô
hình
tăng
trưởng
và
do
đó
không
tạo
ra
sự
cân
bằng
động
trong
xuất
khẩu”.
Theo
ông,
xuất
khẩu
có
thể
tăng
nhờ
GSP
nhưng
nhập
khẩu
cũng
tăng
do
sức
cạnh
tranh
về
năng
suất
lao
động,
chất
lượng
và
giá
thành
trong
sản
xuất
vẫn
thấp.
Trong
điều
kiện
Việt
Nam
hội
nhập
ngày
càng
sâu
rộng
vào
nền
kinh
tế
thế
giới
với
việc
tham
gia
vào
nhiều
hiệp
định
mậu
dịch
tự
do
song
phương
và
khu
vực,
mức
thuế
nhập
khẩu
trong
các
hiệp
định
này
sẽ
giảm
xuống
sau
một
thời
gian
(thường
là
10
năm)
thì
ý
nghĩa
của
GSP
cũng
sẽ
giảm
dần
và
triệt
tiêu.
Vì
vậy,
cùng
với
việc
tranh
thủ
tận
dụng
chế
độ
GSP,
cần
đẩy
nhanh
tiến
trình
tái
cơ
cấu
nền
kinh
tế,
chuyển
đổi
mô
hình
tăng
trưởng
nhằm
nâng
cao
sức
cạnh
tranh.
Ông
Trương
Đình
Tuyển
nhấn
mạnh:
“đây
là
con
đường
cơ
bản
nhất
để
tăng
năng
lực
xuất
khẩu
bền
vững”.
Nút
thắt
của
ngành
Dệt
may,
không
chỉ
tắc
ở
TPP
Đứng
trước
TPP,
các
chuyên
gia
vẫn
luôn
đánh
giá
khó
khăn
đối
với
ngành
dệt
may
là
quy
định
xuất
xứ
nguyên
liệu
“từ
sợi
trở
đi”.
Nhưng
không
phải
đến
lúc
đàm
phán
TPP,
vấn
đề
đó
mới
là
khó
khăn
của
dệt
may.
Theo
đại
diện
của
công
ty
May
10,
vấn
đề
mấu
chốt
của
các
doanh
nghiệp
dệt
may
nói
chung
và
May
10
nói
riêng
khi
tận
dụng
các
lợi
thế
của
GSP
chính
là
phần
xuất
xứ
nguyên
phụ
liệu
đầu
vào
để
đủ
điều
kiện
hưởng
ưu
đãi.
Bởi
vì
đối
với
hàng
FOB
hiện
tại,
các
nguyên
liệu
chính
vẫn
do
khách
hàng
chỉ
định
và
chủ
yếu
nhập
từ
Trung
Quốc.
Hầu
như
May
10
không
thể
xin
được
hưởng
ưu
đãi
cho
hàng
FOB.
Đây
cũng
là
lo
ngại
của
ông
Claudio
Dordi
khi
doanh
nghiệp
Việt
vẫn
chỉ
nằm
ở
trên
mức
“DN
gia
công”
một
chút.
Mục
đích
giúp
đỡ
các
nước
đang
phát
triển
bằng
GSP
có
thể
sẽ
trở
thành
sự
giúp
đỡ
cho
những
nước
phát
triển
khi
họ
đầu
tư
vào
Việt
Nam
để
hưởng
thuế
suất
xuất
khẩu
ưu
đãi,
còn
DN
Việt
sẽ
vẫn
dậm
chân
tại
chỗ!
Những
người
trong
ngành
như
May
10
cũng
thừa
nhận:
“Ở
tầm
vĩ
mô
hơn,
nếu
doanh
nghiệp
Việt
Nam
có
thể
liên
kết,
tận
dụng
các
vốn
đầu
tư
để
trực
tiếp
sản
xuất
nguyên
phụ
liệu
ngay
từ
trong
nước
là
điều
tốt
nhất.
Tuy
nhiên
hiện
tại
thì
DN
Việt
vẫn
chưa
làm
được
điều
đó.”
Hải Minh
Theo Trí Thức Trẻ
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Đang truy cập : 110
•Máy chủ tìm kiếm : 18
•Khách viếng thăm : 92
Hôm nay : 23699
Tháng hiện tại : 921039
Tổng lượt truy cập : 44288724