21:37 EDT Thứ tư, 15/05/2024

Trang nhất » Tin Tức » Nghiên cứu - Chia sẻ

Thông điệp “nóng” về nợ công

Thứ tư - 20/07/2016 08:01
Một trong các thông điệp nóng tại Hội nghị tháng 6.2016 của Nhóm đối tác tài chính với Bộ Tài chính chủ đề: “Cải cách chi tiêu công” là sự khẳng định Việt Nam hiện đã thoát khỏi giai đoạn khủng hoảng kinh tế vĩ mô, lạm phát đã được kiềm chế thành công và môi trường kinh doanh đã được ổn định, tăng trưởng được hồi phục và duy trì ở mức hợp lý… Tuy nhiên, Việt Nam cũng đang đối mặt nhiều thách thức, nổi bật là: Tăng gánh nặng nợ công và áp lực kiểm soát bội chi NSNN; Gắn chi tiêu công với các ưu tiên của quốc gia để bảo đảm công bằng và tăng trưởng bền vững; Tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình về kết quả và giám sát hiệu quả hoạt động chi tiêu công, bền vững tài khóa và an toàn tài chính quốc gia trong giai đoạn 2016-2020…

Theo Bộ Tài chính, trong 5 năm qua, nợ công của Việt Nam ghi nhận đậm hơn 5 động thái nổi bật theo xu hướng “tối dần”: Thứ nhất, tăng nhanh về tốc độ (bình quân tăng 16,7%/năm, cá biệt năm 2012 tăng tới 31,5% và năm 2015 lại giảm - 6,7%); Thứ hai, mở rộng về quy mô (tổng nợ công năm 2015 ở mức 62,2% GDP và đã tăng gấp đôi so với năm 2010); Thứ ba, điều kiện vay nợ ngặt nghèo và đắt đỏ hơn (giảm dần tỷ lệ huy động ODA từ mức 87% năm 2011 xuống còn 70% năm 2015 và tăng vay ưu đãi từ mức 10% năm 2011 lên 25% năm 2015; đồng nghĩa với việc rút ngắn kỳ hạn trả nợ, tăng lãi vay thương mại); Thứ tư, tăng nhanh về dịch vụ nợ công (chiếm 16% thu NSNN năm 2016 và năm 2014 dịch vụ nợ công đã tăng gần 199% so với năm 2010); Thứ năm, tiệm cận giới hạn cho phép (riêng nợ Chính phủ đã vượt trần từ cuối năm 2015).

Ngoài ra, với tỷ trọng nợ trong nước tăng từ 39% năm 2011 lên 57% năm 2015; tỷ lệ nợ các khoản vay ODA, ưu đãi trong nợ nước ngoài chiếm trên 94%; nợ nước ngoài của quốc gia hiện ở mức 43,1% GDP và khoản vay dài nhất của Việt Nam là tới năm 2055, bình quân các khoản nợ phải trả khoảng 12 năm, thì thời điểm Việt Nam phải trả nợ nhiều là từ năm 2022-2025; dự kiến nợ công đến 31-12-2016 ước khoảng 63,2% GDP và xu hướng tăng chưa có điểm dừng…

Thực tế cho thấy, nợ công tăng trước hết do nhu cầu vốn đầu tư phát triển và vay nợ mở rộng sản xuất kinh doanh tăng thời kỳ đầu cất cánh và đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế. Nguồn vốn vay nợ công cơ bản đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế-xã hội (giai đoạn 2010-2015, tổng huy động nợ công chiếm khoảng 44% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội) và cân đối NSNN, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Việc trả nợ của Chính phủ được tổ chức thực hiện chặt chẽ và luôn đảm bảo đúng hạn, bao gồm cả nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ và trả nợ cho vay lại, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn làm ảnh hưởng tới các cam kết, góp phần tăng cường hệ số tín nhiệm quốc gia.

Nợ công cao gắn với những hạn chế trong nguồn thu NSNN do nền kinh tế quy mô nhỏ và tăng trưởng kinh tế chưa ổn định; do giảm thuế và nợ đọng thuế,

Trốn thuế; trong khi có sự gia tăng chi thường xuyên từ NSNN cho đội ngũ hơn 11 triệu người trong toàn bộ hệ thống chính trị và quản lý các cấp (chi thường xuyên chiếm 65% tổng dự toán chi ngân sách Nhà nước năm 2016, riêng chi lương cho hơn 55.800 đơn vị sự nghiệp công chiếm gần 39% tổng chi lương toàn hệ thống, so với chi cho cơ quan hành chính từ Trung ương đến xã chỉ chiếm tỷ lệ chi chưa đến 9%). Điều này khiến tổng thu NSNN hàng năm chỉ đủ trang trải chi thường xuyên và trả nợ công…

Thực tế cho thấy, nợ công tăng nhanh còn do quản lý chi tiêu công và nợ công có nhiều bất cập; trong khi liên tục có sự bổ sung những áp lực phát sinh nợ công mới gắn với nợ đọng trong xây dựng nông thôn mới, nợ xấu của ngân hàng thương mại nhà nước và với gia tăng đột xuất nhu cầu chi tiêu công nhằm ứng phó, khắc phục hậu quả biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, hỗ trợ doanh nghiệp và bảo đảm an sinh xã hội, trật tự, an ninh và chủ quyền quốc gia…

Để kiểm soát nợ công, cần đẩy mạnh tái cơ cấu, giảm thiểu quy mô Nhà nước-Nhà quản lý-Nhà đầu tư- Nhà cung ứng dịch vụ công- Người chủ sở hữu ; Tập trung kiểm soát ‘gianh giới đỏ”nợ công; Phát triển thị trường vốn trong nước lành mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu; đa dạng hóa và kéo dài kỳ hạn bình quân danh mục nợ trái phiếu Chính phủ 2016-2020; Đẩy mạnh tiến độ giải ngân ODA đã ký kết; Tiếp tục tìm kiếm các nguồn vốn ODA phù hợp; Phát triển thể chế hỗ trợ chuyển đổi từ vay ODA, vay ưu đãi sang vay theo điều kiện thị trường; Nâng cao chất lượng các quy hoạch và khắc phục tình trạng huy động, sử dụng vốn vay dàn trải, lãng phí; Thống nhất đầu mối và tăng cường sự phối hợp đồng bộ giữa các Bộ ngành, địa phương; Phát triển công cụ quản lý rủi ro chủ động, linh hoạt và chuyên nghiệp, đáng tin cậy, bổ sung các công cụ quản lý nợ chủ động và các chế tài mạnh, nhằm tăng cường kỷ luật, năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý, sử dụng nợ công.

Đặc biệt, cần thay đổi nhận thức và làm rõ trách nhiệm cá nhân cụ thể và nghiêm khắc hơn về vay nợ và trả nợ công; Tích cực chuẩn bị kỹ và triển khai nghiêm túc Đề án về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công, đảm bảo nền tài chính an toàn, bền vững do Bộ Tài chính đang chủ trì; quán triệt tinh thần “Phòng cháy hơn chữa cháy”, chủ động ngăn chặn và kiểm soát khủng hoảng nợ công; kiên quyết không dồn gánh nặng nợ công cho các thế hệ tương lai, kiểu “Đời cha ăn mặn-Đời con khát nước”.

Nguồn tin: Báo Lao Động

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Các sáng lập viên

Thống kê truy cập

Đang truy cậpĐang truy cập : 180

Máy chủ tìm kiếm : 3

Khách viếng thăm : 177


Hôm nayHôm nay : 42112

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 957505

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 44325190



thiet ke ho ca koi mai hien di dong cong ty to chuc su kien thang may tai hang thang mang tai khach