Bác
sĩ
Nguyễn
Văn
Đức
Nhờ
những
tiến
bộ
cuả
y
học,
tuổi
thọ
chúng
ta
ngày
càng
tăng.
Song
cao
tuổi,
chúng
ta
dễ
gãy
xương.
Một
trong
những
yếu
tố
quan
trọng
khiến
ta
hay
gãy
xương
khi
có
tuổi
là
bệnh
xốp
xương.
Bệnh
xốp
xương,
hay
rỗng
xương
(osteoporosis),
khiến
xương
yếu
dần,
trở
nên
mềm,
dễ
gãy.
20
triệu
người
ở
Mỹ
hiện
mang
bệnh
xốp
xương.
Nhiều
vị
thành
tàn
phế,
phải
trông
nhờ
vào
sự
chăm
sóc
của
người
khác.
Ở
Việt
Nam
ta,
hình
ảnh
của
bệnh
cũng
đã
đi
vào
ca
dao:
“Bà
còng
đi
chợ
trời
mưa
Cái
tôm
cái
tép
đi
đưa
bà
còng”
Bệnh
xảy
ra
cho
phụ
nữ
nhiều
hơn
đàn
ông.
Thời
gian
gần
đây,
nhiều
khám
phá
mới
đưa
đến
những
hiểu
biết
cặn
kẽ
hơn
về
căn
bệnh,
đồng
thời,
những
phương
pháp
định
bệnh
chính
xác,
nhiều
cách
chữa
trị
hữu
hiệu
lần
lượt
ra
đời,
giúp
các
bác
sĩ
có
thêm
phương
tiện
định
bệnh,
trong
tay
thêm
nhiều
vũ
khí
chiến
đấu
chống
căn
bệnh.
Mỗi
xương
gồm
có
vỏ
bên
ngoài,
bao
bọc
một
lòng
bên
trong.
Lòng
xương
bình
thường
đặc
và
chắc.
Bệnh
xốp
xương
do
một
số
các
chất
trong
lòng
xương
mất
đi
dần
theo
thời
gian,
khiến
xương
không
còn
đặc,
chắc
như
trước.
Đây
là
hiện
tượng
mất
xương
(bone
loss)
theo
thời
gian
khi
ta
có
tuổi.
Đời
là
một
tiến
trình
vừa
phá
hoại,
vừa
xây
dựng.
Xương
là
nơi
thể
hiện
triết
lý
này
triệt
để
nhất.
Trong
suốt
cuộc
đời
ba
vạn
chín
nghìn
ngày
của
chúng
ta,
luôn
luôn
trong
xương
lúc
nào
cũng
có
tiến
trình
phá
xương
cũ,
tạo
xương
mới.
Công
tác
phá
xương
cũ
được
trao
cho
các
tế
bào
có
tên
gọi
“osteo
clast”.
Công
tác
tạo
xương
mới
do
các
tế
bào
có
tên
“osteo
blast”
đảm
nhiệm.
Tên
chúng
giống
nhau,
chỉ
khác
có
chữ
c
và
b
ở
giữa.
c
là
cắn
cấu,
b
là
bồi
bổ
.
Thời
gian
không
những
gặm
nhấm
tâm
hồn
ta,
còn
gặm
dần
xương
ta.
Cho
đến
khoảng
tuổi
giữa
30
vào
40,
xương
vẫn
tiếp
tục
phát
triển,
nên
ta
tạo
xương
nhiều
hơn
mất
xương.
Sau
đó,
tới
một
giai
đoạn
cân
bằng,
xương
tạo
ra
do
các
tế
bào
“osteo
blast”
cân
bằng
với
xương
lấy
mất
đi
bởi
các
tế
bào
“osteo
clast”.
Chỗ
nào
trong
xương
bị
các
tế
bào
osteo
clast
cắn
phá,
chỗ
ấy
lập
tức
được
các
tế
bào
osteo
blast
chạy
tới
bồi
đắp
những
xương
mới.
Rồi
khi
về
già,
ít
nhiều,
chúng
ta
đều
mất
xương
dần,
do
xương
cũ
bị
phá
đi,
song
xương
mới
không
tạo
ra
kịp
để
trám
các
chỗ
hổng
trong
xương,
nơi
những
xương
cũ
không
còn.
Ai
mất
xương
nhiều
quá,
sẽ
bị
bệnh
xốp
xương.
Đặc
biệt,
phụ
nữ,
sau
khi
mãn
kinh,
cùng
với
những
thay
đổi
khác
của
cơ
thể
gây
do
mãn
kinh,
như
hay
bị
những
cơn
hừng
nóng
mặt
(hot
flashes),
khó
ngủ,
buồn
sầu,
ngứa
ngáy
âm
đạo,
đi
tiểu
nhiều
lần,
tiểu
khó,
...,
người
phụ
nữ
cũng
bị
mất
xương
nhanh
chóng.
Do
buồng
trứng
nghỉ
làm
việc,
không
còn
tiết
đủ
chất
kích
thích
tố
nữ
estrogen
cần
cho
cơ
thể
như
xưa.
Estrogen
có
tác
dụng
cân
bằng
sự
phá
xương
và
sự
tạo
xương.
Thiếu
estrogen,
các
tế
bào
osteo
clast
gia
tăng
hoạt
động,
cắn
phá,
tạo
những
lỗ
hổng
trong
xương,
trước
con
mắt
bất
lực
của
các
tế
bào
osteo
blast.
Lâu
dần,
lòng
xương
không
còn
đặc,
chắc
như
trước,
và
xương
trở
nên
xốp
rỗng,
mềm,
dễ
gãy.
Như
vậy,
chất
kích
thích
tố
nữ
estrogen
là
lính
canh
cửa
cần
mẫn,
ngăn
không
cho
thời
gian
ăn
cắp
mất
xương
của
người
phụ
nữ.
Trong
khoảng
tuổi
45
đến
55,
người
phụ
nữ
kinh,
chất
estrogen
đột
ngột
giảm
đi
trong
cơ
thể,
trộm
thời
gian
tha
hồ
tung
hoành.
Có
vị
mất
đến
25%
độ
đặc
của
xương
(bone
density),
chỉ
trong
vòng
5-7
năm
sau
khi
mãn
kinh.
Ai
dễ
bị
bệnh
xốp
xương?
Nhiều
yếu
tố
khiến
tình
bạn
giữa
ta
và
xương
dễ
mất:
-
Tuổi
tác:
càng
cao
tuổi,
ta
càng
mất
xương
dần.
Nếu
xương
mất
nhiều
quá,
sẽ
đưa
đến
bệnh
xốp
xương.
-
Phụ
nữ:
trong
100
trường
hợp
bệnh
xốp
xương,
80
người
là
phụ
nữ.
-
Người
gốc
da
trắng.
-
Gia
đình
có
người
gãy
xương
do
bệnh
xốp
xương
(nhất
là
gãy
xương
hông
ở
mẹ).
-
Người
lớn
đã
từng
gãy
xương,
nhất
là
ở
những
nơi
hay
bị
bệnh
xốp
xương
như
xương
sống,
xương
hông,
xương
cổ
tay.
-
Mãn
kinh
sớm
(trước
tuổi
45).
-
Người
cả
đời
ít
dùng
chất
calcium
và
sinh
tố
D.
-
Đời
sống
ít
hoạt
động,
ít
thể
dục
thể
thao.
-
Hút
thuốc
lá.
-
Uống
rượu
nhiều
quá.
-
Người
gầy,
nhẹ
cân.
Ngoài
ra,
những
người
mang
bệnh
cường
tuyến
giáp
trạng
(hyperthyroidism)
hoặc
dùng
thuốc
steroid
lâu
ngày
cũng
dễ
bị
xốp
xương.
Triệu
chứng
Xốp
xương
là
một
căn
bệnh
khởi
đầu
thầm
lặng.
Nó
lặng
lẽ
ở
với
nhiều
người
qua
những
năm
tháng,
cho
tới
khi
người
ấy
đột
nhiên
bị
gãy
xương.
Khi
xương
sống
(spine)
đã
trở
thành
mềm
và
yếu
do
mất
xương
nhiều
quá,
nó
cứ
gãy
dần,
từ
từ,
ít
một.
Có
khi
chỉ
cần
ho
một
tiếng,
hoặc
cúi
xuống
bế
cháu
đang
khóc,
cũng
đủ
khiến
xương
sống
gãy
thêm
một
chút.
Lâu
ngày,
xương
sống
gãy
đã
nhiều
lần,
mà
ta
không
hay
biết,
sẽ
ngắn
dần,
làm
người
thấp
đi.
Nhiều
người
thấy
quần
mình
tự
nhiên
sao
dài
hơn
trước,
hoặc
quần
áo
vẫn
mặc
nay
hơi
kỳ
kỳ,
không
còn
thực
vừa
ý.
Sau
cùng,
một
ngày
kia,
họ
bắt
đầu
thấy
đau,
lưng
còng
đi,
rồi
đi
lại
khó
khăn.
Đi
chợ
trời
mưa
hay
té
ngã.
Té
ngã
như
vậy
lại
gây
gãy
xương
ở
những
chỗ
khác,
những
xương
đã
mềm
sẵn,
mỏng
mảnh
như
pha-lê.
Có
người
chỉ
va
tay
vào
cạnh
bàn,
đã
gãy
cổ
tay.
Gãy
xương
cổ
tay
gây
trở
ngại
biết
bao
cho
những
công
việc
hàng
ngày,
ngay
cả
với
những
công
việc
giản
dị
nhất.
Giặt
dũ,
cơm
nước,
mặc
quần
áo,
may
vá,
làm
vườn,
đi
chợ,
trông
cháu,
...,
đều
đòi
hỏi
một
xương
cổ
tay
mạnh
và
khéo
léo.
Có
người
gãy
xương
hông
(hip),
dù
chỉ
ngã
rất
nhẹ.
Gãy
xương
hông
đưa
đến
chết
người,
sống
được
cũng
khổ
lắm.
Hơn
một
nửa
số
người
sống
sót
sau
khi
gãy
xương
hông
vào
nhà
dưỡng
lão,
hoặc
phải
nhờ
người
giúp
khi
đi
lại.
Định
bệnh
Xốp
xương
là
căn
bệnh
thầm
lặng,
việc
truy
tìm
căn
bệnh
trong
giai
đoạn
sớm
của
nó
không
dễ.
Gần
đây,
với
những
hiểu
biết
mới,
việc
truy
tìm
căn
bệnh
không
còn
khó.
Bác
sĩ
sẽ
nghi
bạn
mang
bệnh
xốp
xương
“osteoporosis”
nếu
bạn
hay
đau
lưng,
nay
thấp
nhỏ
đi,
lưng
còng
hơn
trước
theo
gánh
nặng
thời
gian,
hoặc
bạn
bị
gãy
xương,
đặc
biệt
tại
nơi
dễ
bị
bệnh
xốp
xương
(như
xương
sống,
xương
hông,
xương
cổ
tay).
Nhất
là
bạn
lại
có
những
yếu
tố
dễ
đưa
đến
bệnh
xốp
xương
kể
trên.
Nghi
là
một
chuyện
(bác
sĩ
nào
cũng
mắc
bệnh
đa
nghi,
nghi
đủ
thứ),
nhưng
bạn
có
thực
sự
bị
bệnh
xốp
xương
hay
không,
chúng
ta
cần
hỏi
ý
kiến
của
các
phim
chụp
xương
(X-ray),
và
của
máy
đo
độ
đặc
xương
(bone
densitometry).
Các
phim
chụp
cột
sống
(thoracolumbar
X-ray)
có
thể
cho
thấy
các
vết
gãy
xương,
và
những
thay
đổi
của
xương
khi
bệnh
xốp
xương
đã
tiến
triển
khá
xa,
nhưng
không
cho
thấy
được
những
thay
đổi
của
xương
trong
những
trường
hợp
bệnh
còn
nhẹ,
mất
xương
chưa
nhiều.
Phim
chụp
cột
sống
tương
đối
rẻ.
Phương
pháp
cho
biết
thực
sự
ta
đã
mất
đến
bao
nhiêu
xương
là
phương
pháp
đo
độ
đặc
của
xương.
Có
nhiều
cách
để
đo
độ
đặc
xương.
Cách
đo
bằng
máy
có
tên
“dual
energy
X-ray
absorptometry”,
viết
tắt
DXA,
hiện
được
xem
là
cách
đo
độ
đặc
xương
hữu
dụng
nhất.
Máy
đo
DXA
cho
kết
quả
nhanh
chóng,
chính
xác,
lại
phóng
ra
chất
phóng
xạ
tối
thiểu,
nên
không
gây
hại
cho
người
được
đo
xương.
Máy
có
thể
đo
độ
đặc
của
bất
cứ
xương
nào
trong
cơ
thể,
nhưng
thường
được
dùng
để
đo
xương
sống,
xương
hông,
những
xương
hay
bị
bệnh
xốp
xương
tấn
công.
Máy
hoạt
động
nhanh
chóng,
trong
vòng
5-10
phút
là
xong,
bạn
không
phải
nằm
lâu
mỏi
lưng.
Tiền
một
lần
đo
xương
bằng
máy
DXA
khoảng
150-300
đô-la.
So
với
các
trị
số
độ
đặc
xương
của
một
phụ
nữ
bình
thường
trước
tuổi
mãn
kinh,
nếu
máy
đo
cho
thấy
độ
đặc
xương
của
bạn
trong
khoảng
1
đến
2.5
dưới
các
trị
số
bình
thường
của
phụ
nữ
trước
tuổi
mãn
kinh
ấy,
xương
của
bạn
đã
bị
mất
đi
ít
nhiều
rồi
đấy.
Nếu
máy
đo
DXA
cho
thấy
các
trị
số
độ
đặc
xương
của
bạn
còn
tệ
hơn
thế,
tức
dưới
2.5,
bạn
quả
thực
đã
bị
bệnh
xốp
xương,
với
triển
vọng
bị
gãy
xương
rất
cao.
Vẫn
còn
một
ít
bàn
cãi
về
những
trường
hợp
nào
cần
dùng
đến
máy
đo
độ
đặc
xương
DXA.
Nên
“Đo
Xương
Ai”?
Ai
sau
tuổi
mãn
kinh
cũng
cần
được
đo
xương
chăng?
-
Các
vị
phụ
nữ
65
tuổi
trở
lên
nên
được
đo
độ
đặc
xương.
(Vì
vậy,
Medicare
cho
các
vị
phụ
nữ
65
trở
lên
đo
dộ
đặc
xương
mỗi
2
năm.)
-
Các
phụ
nữ
đã
mãn
kinh
dưới
65
tuổi,
song
trước
từng
gãy
xương,
hoặc
nhẹ
cân,
đang
dùng
thuốc
steroid
(như
Prednisone),
hút
thuốc
lá,
uống
rượu
nhiều,
mang
bệnh
viêm
khớp
rheumatoid
(rheumatoid
arthritis),
có
phim
chụp
(X-ray)
cho
thấy
xương
trông
mỏng
(osteopenia),
hoặc
có
bố,
mẹ
từng
gãy
xương
hông,
cũng
nên
đo
độ
đặc
xương.
-
Nói
chung,
đo
độ
đặc
xương
không
cần
thiết
trước
tuổi
mãn
kinh
(mãn
kinh
tự
nhiên,
hoặc
do
đã
cắt
buồng
trứng).
Tuy
vậy,
nên
nghĩ
đến
việc
đo
độ
đặc
xương
cho
những
người
đang
mang
các
bệnh,
hoặc
dùng
các
thuốc
khiến
xương
dễ
bị
mất,
dù
họ
chưa
mãn
kinh.