Một
nữ
khoa
học
gia
đã
tự
chữa
lành
bệnh
ung
thư
bằng
phương
pháp
cải
thiện
ăn
uống
Thứ
bảy
-
16/07/2011
01:59
Nữ
Giáo
sư
Jane
Plant,
khoa
học
gia
nổi
tiếng
của
Anh
Quốc,
bị
bệnh
ung
thư
nhũ
hoa
từ
năm
1987.
Thông
thường
thì
một
bệnh
nhân
ung
thư
khó
mà
sống
sót
được
khi
bệnh
đã
tái
phát
đến
lần
thứ
hai.
Tuy
nhiên
nhờ
kiến
thức
khoa
học
sẵn
có
cũng
như
với
sự
điều
trị
và
chăm
sóc
nhiệt
tình
của
các
bác
sĩ
chuyên
khoa
thượng
thặng,
bà
đã
kéo
dài
được
mạng
sống.
Dầu
vậy
bệnh
của
bà
đã
tái
phát
đến
năm
lần,
rồi
cuối
cùng
đã
lan
đến
hệ
thống
bạch
huyết
trong
cơ
thể.
Trước
tình
trạng
nguy
ngập
đó,
bà
vẫn
không
chịu
bó
tay
chờ
chết
mà
cương
quyết
tự
chữa
bằng
cách
ăn
uống
có
phương
pháp.
Cuối
cùng
bà
đã
lành
bệnh.
Bà
đã
cho
xuất
bản
quyển
sách
Your
Life
in
Your
Hands
(Mạng
sống
trong
tay
của
bạn)
dể
kể
lại
những
kinh
nghiệm
cá
nhân
mà
bà
đã
trải
qua
để
quảng
bá
cho
tất
cả
mọi
người.
Nhận
thấy
đây
là
một
tài
liệu
rất
hữu
ích
nên
chúng
tôi
xin
trích
dẫn
một
đoạn
trong
quyển
sách
ấy
để
cống
hiến
quý
vị
độc
giả
tham
khảo.
"
Sau
khi
bệnh
ung
thư
nhũ
hoa
của
tôi
tái
phát
đến
lần
thứ
năm,
tôi
nghĩ
tôi
sẽ
không
có
sự
lựa
chọn
nào
khác
hơn
là
phải
chết
hoặc
cố
gắng
tìm
một
phương
pháp
khác
để
tự
chữa
cho
mình.
Tôi
là
một
khoa
học
gia,
dĩ
nhiên
tôi
đã
biết
chứng
bệnh
quái
ác
này
hiện
nay
đã
cướp
mất
mạng
sống
của
một
trong
số
12
người
phụ
nữ
tại
Anh
Quốc
và
Úc
Đại
Lợi.
Tôi
đã
cam
lòng
chịu
giải
phẫu
mất
đi
hết
một
cái
vú
và
đã
được
chữa
trị
bằng
quang
tuyến
liệu
pháp.
Tôi
cũng
đang
được
trị
liệu
bằng
chemotherapy
và
được
chăm
sóc
bởi
những
y
sĩ
chuyên
khoa
tài
giỏi.
Nhưng
cuối
cùng
tôi
cũng
chắc
chắn
sẽ
phải
chết
mà
thôi.
Tôi
đã
có
chồng,
sở
hữu
một
ngôi
nhà
xinh
đẹp
và
có
hai
đứa
con
ngoan
ngoản
dễ
thương
mà
tôi
rất
yêu
quý.
Tôi
mong
muốn
được
sống
còn.
May
thay
niềm
khao
khát
mãnh
liệt
đó
đã
giúp
tôi
có
thêm
nghị
lực
khám
phá
được
rất
nhiều
sự
kiện
mới
mẻ
mà
hiện
thời
một
số
khoa
học
gia
khác
cũng
đã
có
cùng
chung
một
số
hiểu
biết
như
tôi.
Những
người
có
liên
hệ
đến
bệnh
ung
thư
nhũ
hoa
hẵn
đều
biết
những
trường
hợp
nguy
hiểm
khác
cũng
sẽ
xảy
ra
cho
chính
bản
thân
người
bệnh.
Đó
là
sự
già
nua
đến
sớm;
sắc
đẹp
chóng
tàn;
tuổi
tắt
kinh
đến
muộn
vân
vân,
tất
cả
đều
ở
ngoài
tầm
kiểm
soát.
Tuy
nhiên,
theo
tôi,
những
trường
hợp
nguy
hiểm
vừa
kể
có
thể
khống
chế
dễ
dàng.
Đó
là
chúng
ta
phải
có
nghị
lực
cương
quyết
thay
đổi
hoàn
toàn
một
vài
nếp
sống
mà
nhất
là
thói
quen
ăn
uống
hàng
ngày.
Điều
mà
tôi
muốn
khẳng
định
cùng
quý
vị
là
bệnh
ung
thư
nhũ
hoa
có
thể
chữa
được
vì
chính
tôi
là
một
bệnh
nhân
đã
sống
còn
qua
cơn
nguy
hiểm
và
sẽ
kể
cho
quý
vị
biết
nhũng
kinh
nghiệm
hữu
ích
đó.
Khi
tôi
bắt
đầu
bị
bệnh
và
đang
điều
trị
bằng
chemotherapy
thì
chồng
tôi
là
Peter,
cũng
là
một
khoa
học
gia,
làm
việc
tại
Trung
Quốc
đã
trở
về.
Anh
có
mang
về
một
số
tài
liệu
và
một
số
thuốc
nhét
(suppositories)
bằng
thảo
dược,
nghe
nói
là
hay
lắm.
Chồng
tôi
mô
tả
đây
là
loại
thuốc
trị
bệnh
ung
thư
nhũ
hoa
đại
tài
tại
Trung
Quốc.
Mặc
dầu
bệnh
tình
của
tôi
lúc
bấy
giờ
thật
là
đáng
ngại,
nhưng
cả
hai
chúng
tôi
không
khỏi
phì
cười.
Tôi
bảo
nếu
quả
thật
đây
là
một
loại
thuốc
công
hiệu
thì
chắc
tại
Trung
Hoa
rất
hiếm
thấy
phụ
nữ
bị
bệnh
ung
thư
nhũ
hoa
lắm.
Mà
thật
vậy!
Theo
thống
kê
của
các
nhà
khoa
học
thì
tại
khắp
lãnh
thổ
Trung
Quốc
hiếm
thấy
phụ
nữ
mắc
bệnh
ung
thư
nhũ
hoa.
Trung
bình
thì
cứ
mười
ngàn
phụ
nữ
mới
có
một
người
mắc
phải
chứng
bệnh
quái
ác
này.
Trong
khi
ở
Hoa
Kỳ
và
các
nước
Tây
Phương
thì
trung
bình
cứ
12
phụ
nữ
lại
có
một
người
mắc
bệnh
ung
thư
nhũ
hoa.
Sự
kiện
không
phải
vì
dân
chúng
Trung
Hoa
sinh
sống
trong
vùng
nông
thôn
nhiều
hơn
nên
không
bị
nạn
ô
nhiễm
môi
trường
các
loại
như
dân
chúng
trong
thành
phố.
Bằng
chứng
tại
Hồng
Kông,
một
đô
thị
có
mật
độ
dân
cư
đông
đảo
và
cũng
học
đòi
theo
nếp
sống
Tây
phương,
nhưng
cứ
mười
ngàn
phụ
nữ
mới
có
34
người
chết
vì
bệnh
ung
thư
nhũ
hoa.
Tỷ
số
này
vẫn
còn
thắng
xa
Hoa
Kỳ
và
các
nước
Tây
Phương
nhiều
lắm.
Dân
chúng
Nhật
Bản
tại
hai
thành
phố
Hiroshima
và
Nagazaki
cũng
có
tử
suất
tương
tợ.
Vì
hai
thành
phố
này
bị
nhiễm
phóng
xạ
nguyên
tử
do
Hoa
Kỳ
ném
xuống
từ
thời
Đệ
Nhị
Thế
Chiến.
Liên
quan
đến
dân
cư
trong
thành
phố
mắc
bệnh
ung
thư
cao,
người
ta
cũng
quan
tâm
đến
sự
quan
hệ
giữa
phóng
xạ
tuyến
nguyên
tử
và
mầm
móng
gây
ra
bệnh
ung
thư
như
thế
nào.
Song,
thống
kê
cho
thấy
nếu
phụ
nữ
Tây
Phương
mà
di
cư
đến
hai
thành
phố
nhiễm
nhiều
phóng
xạ
nguyên
tử
ở
Nhật
Bản
nói
trên
thì
sát
suất
bị
bệnh
ung
thư
nhũ
hoa
lại
càng
cao
hơn
dân
chúng
dịa
phương
đến
một
nữa.
Thật
rõ
ràng,
không
phải
chỉ
có
môi
trường
chung
quanh
ảnh
hưởng
đến
nguyên
nhân
gây
ra
bệnh
ung
thư
các
loại,
mà
chính
yếu
là
nếp
sống
cá
nhân
và
thói
quen
ăn
uống.
Tôi
cũng
còn
khám
phá
biết
thêm
sự
cách
biệt
quá
xa
về
tỷ
số
mắc
bệnh
ung
thư
nhũ
hoa
giữa
dân
chúng
Tây
Phương
và
Đông
Phương
không
phải
do
nguyên
nhân
của
sự
di
truyền
huyết
thống.
Các
chuyên
gia
nghiên
cứu
khoa
học
đã
chứng
minh
cho
thấy
dân
Trung
Hoa
và
Nhật
Bản
di
cư
sang
các
nước
Tây
Phương,
chỉ
một
hoặc
hai
thế
hệ
sau
là
sẽ
có
tỷ
số
mắc
bệnh
ung
thư
ngang
hàng
với
dân
chúng
bản
địa.
Sự
kiện
này
cũng
đã
xảy
ra
tại
Hồng
Kông
là
người
Trung
Hoa
nào
bắt
chước
theo
nếp
sống
y
hệt
như
người
Tây
Phương
thì
cũng
sẽ
có
nguy
cơ
bị
các
chứng
bệnh
nguy
hiểm
tương
tợ.
Vì
vậy
người
Tàu
có
một
câu
ngạn
ngữ
dí
dõm
gọi
bệnh
ung
thư
nhũ
hoa
là
"chứng
bệnh
của
những
phụ
nữ
giàu
có".
Lý
do
vì
ở
Trung
Quốc
chỉ
có
những
người
giàu
có
mới
bắt
chước
theo
lối
ăn
uống
của
người
Tây
Phương
mà
thôi.
Phần
đông
người
Trung
Hoa
gọi
các
thức
ăn
có
nhiều
chất
béo
động
vật
như
sữa
và
các
sản
phẩm
của
sữa
như
bơ,
phó
mát,
sô
cô
la
vân
vân
là
"đồ
ăn
Hồng
Kông".
Vì
đó
là
các
thức
ăn
uống
du
nhập
từ
Anh
quốc
vào
lãnh
địa
này
từ
thuở
xa
xưa
mà
trong
quá
khứ
rất
hiếm
và
quý
tại
lục
địa
Trung
Quốc.
Do
những
dẫn
chứng
trên
đây,
tôi
nghĩ
và
cũng
để
ý
thấy
bệnh
ung
thư
nhũ
hoa
xảy
ra
cho
chính
cá
nhân
tôi
cũng
thường
thấy
xảy
ra
trong
giới
phụ
nữ
trung
lưu
và
giàu
có
tại
các
xứ
Tây
Phương.
Qua
nghiên
cứu,
tôi
cũng
đã
biết
được
đa
số
những
người
đàn
ông
bị
bệnh
ung
thư
tuyến
tiền
liệt
cũng
ở
trong
trường
hợp
tương
tợ
như
vậy.
Theo
thống
kê
của
Tổ
Chức
Y
Tế
Quốc
Tế
(WHO),
tỷ
số
những
người
đàn
ông
tại
Trung
Quốc
mắc
bệnh
ung
thư
tuyến
tiền
liệt
không
đáng
kể.
Trung
bình
trong
một
triệu
người
chỉ
có
5
người
mắc
phải
bệnh
này
mà
thôi.
Tại
các
nước
Tây
Phương,
tỷ
số
này
cao
gấp
70
lần
nhiều
hơn
ở
Trung
Quốc
và
cũng
phần
đông
xảy
ra
trong
giới
đàn
ông
trung
lưu
và
giàu
có.
Tôi
cũng
nhớ
tôi
đã
từng
hỏi
chồng
tôi,
một
khoa
học
gia
đã
trở
về
từ
Trung
Quốc,
rằng
tại
sao
người
Trung
Hoa
sinh
sống
như
thế
nào
mà
phụ
nữ
ít
bị
bệnh
ung
thư
nhũ
hoa
vậy?
Chúng
tôi
đã
lợi
dụng
cơ
hội
này
để
tra
cứu
các
thống
kê
cập
nhật
của
các
khoa
học
gia
và
cuối
cùng
đã
tìm
ra
được
giải
đáp
là
người
Tây
Phương
đã
ăn
rất
nhiều
chất
béo.
Các
nghiên
cứu
cho
thấy
trong
thập
niên
1980,
trung
bình
người
Trung
Hoa
tiêu
thụ
14
phần
trăm
calories
lấy
từ
chất
béo,
so
với
36%
của
người
Tây
Phương.
Tuy
nhiên
trước
khi
tôi
bị
bệnh
ung
thư
nhũ
hoa,
tôi
cũng
đã
ăn
rất
ít
chất
béo
nhưng
nhiều
chất
xơ.
Vả
lại
tôi
được
biết
đối
với
cơ
thể
của
người
lớn,
hấp
thụ
nhiều
chất
béo
chưa
hẳn
đã
gia
tăng
nguy
cơ
bị
bệnh
ung
thư
nhũ
hoa
của
phụ
nữ,
dựa
theo
các
báo
cáo
trong
quá
trình
nghiên
cứu
12
năm
qua.
Một
hôm
khi
cùng
làm
việc
với
chồng
tôi,
tôi
sực
nhớ
không
biết
một
trong
hai
chúng
tôi
trước
đây
ai
đã
có
lần
bảo
là
người
Trung
Hoa
không
có
dùng
sữa
và
các
sản
phẩm
của
sữa.
Thật
là
khó
giải
thích
vì
đây
không
phải
là
một
sự
kiện
được
nghiên
cứu
bằng
khoa
học.
Tuy
nhiên
trên
thực
tế
người
Trung
Hoa
ít
uống
sữa
và
cơ
thể
của
họ
cũng
khó
chấp
nhận
tiêu
hóa
sữa.
Tôi
nhớ
có
một
thời
gian
đã
cùng
làm
việc
nghiên
cứu
với
một
khoa
học
gia
là
người
Trung
Quốc.
Vị
này
bảo
rằng
sữa
chỉ
dành
cho
trẻ
con
dùng,
cho
nên
cô
rất
nhã
nhặn
từ
chối
các
bữa
ăn
trưa
nào
có
thực
phẩm
bơ
sữa
do
tôi
mời
mọc.
Theo
thói
quen
của
người
Trung
Hoa,
trẻ
con
cũng
không
được
nuôi
lớn
bằng
sữa
bò
mà
chỉ
cho
bú
bằng
sữa
mẹ.
Nếu
vì
sự
bất
tiện
nào
đó
mà
người
mẹ
không
cho
con
bú
được,
có
thể
thuê
mướn
một
bà
vú
để
phụ
trách
công
việc
này.
Theo
truyền
thống
văn
hóa,
người
Trung
Hoa
có
thành
kiến
xem
việc
người
Tây
Phương
tiêu
thụ
sữa
và
các
phó
sản
của
sữa
rất
kỳ
lạ.
Tôi
còn
nhớ
trong
một
buổi
khoản
đãi
phái
đoàn
khoa
học
gia
Trung
Quốc
sau
thời
điểm
cuộc
Cách
mạng
Văn
Hóa
không
lâu
vào
thập
niên
1980.
Theo
sắp
xếp
của
phòng
ngoại
vụ,
sau
bữa
ăn,
chúng
tôi
đã
mời
họ
dùng
tráng
miệng
bằng
kem
.
Họ
hỏi
thức
ăn
này
được
chế
biến
bằng
gì
và
cuối
cùng
đã
lịch
sự
từ
chối
vì
nó
được
làm
bằng
sữa.
Trong
khi
chúng
tôi
rất
thích
món
khoái
khẩu
này.
Sữa
(thông
thường
là
sữa
bò),
theo
tôi
nghiên
cứu
là
loại
thực
phẩm
có
nguyên
nhân
gây
ra
các
loại
dị
ứng
nhiều
nhất.
Hơn
70
phần
trăm
dân
số
trên
thế
giới
không
tiêu
thụ
được
sữa
vì
tạng
phủ
của
họ
không
tiêu
hóa
được
đường
lactose.
Các
chuyên
gia
dinh
dưỡng
cho
rằng
đây
là
trạng
thái
bình
thường
của
những
người
lớn
chớ
không
phải
là
sự
yếu
kém
nào
đó
của
cơ
thể.
Phải
chăng
loài
người
đã
dùng
sai
loại
thực
phẩm
không
phù
hợp
với
bản
chất
thiên
nhiên.
Trước
khi
tôi
bị
bệnh
ung
thư
nhũ
hoa,
tôi
đã
dùng
rất
nhiều
sữa
ít
chất
béo
(skim
milk),
phó
mát
và
sữa
chua
(yogurt).
Tôi
đã
coi
những
thứ
đó
như
là
nguồn
cung
cấp
chất
đạm
dồi
dào.
Tôi
cũng
đã
ăn
thịt
bò
nạc
để
bồi
dưỡng.
Sau
khi
bệnh
tái
phát
lần
thứ
năm
và
trong
thời
kỳ
điều
trị
bằng
chemotherapy,
tôi
lại
ăn
sữa
chua
được
biến
chế
bằng
nguyên
liệu
hữu
cơ
để
giúp
cho
bộ
máy
tiêu
hóa
được
khỏe
mạnh
bằng
cách
tăng
thêm
những
vi
khuẩn
hữu
ích
cần
thiết.
Tuy
nhiên,
theo
nghiên
cứu
hồi
năm
1989,
Bác
sĩ
Daniel
Cramer
thuộc
trường
Đại
học
Harvard
ở
Hoa
Kỳ
đã
theo
dõi
và
ghi
chú
hồ
sơ
của
rất
nhiều
phụ
nữ
liên
hệ
đầy
đủ
từ
chi
tiết
ăn
uống
của
họ.
Kết
quả
cho
thấy
sữa
chua
cũng
có
ảnh
hưởng
đến
nguyên
nhân
gây
ra
các
chứng
bệnh
ung
thư
noãn
sào
của
nữ
giới.
Sau
đó,
chồng
tôi
và
tôi,
đã
dựa
theo
thói
quen
ăn
uống
của
người
Trung
Hoa,
đã
từ
bỏ
sữa
bò
và
tất
cả
những
sản
phẩm
nào
có
liên
quan
đến
sữa,
kể
cả
bánh
ngọt
và
súp
có
thành
phần
chế
biến
bằng
sữa
ở
trong
đó.
Mỗi
lần
đến
siêu
thị
mua
đồ
ăn,
tôi
là
người
đọc
rất
cẩn
thận
công
thức.
Sau
khi
bệnh
tái
phát
lần
này,
tôi
cương
quyết
theo
dõi
kết
quả
một
cách
chặt
chẽ.
Các
bác
sĩ
và
y
tá
khuyên
tôi
nên
ăn
uống
bình
thường
gồm
thịt,
cá,
trứng
và
sữa
trở
lại
như
xưa
để
bồi
bổ.
Nhưng
tôi
khước
từ
và
tự
mình
chủ
động
theo
dõi
kết
quả
của
sự
chữa
trị
có
hữu
hiệu
hay
không?
Thế
rồi
sau
một
loạt
trị
liệu
bằng
chemotherapy
lần
nữa,
tôi
hoàn
toàn
chả
thấy
có
tiến
bộ
gì.
Cục
bướu
vẫn
còn
y
nguyên
hình
dáng
và
kích
thước
như
cũ.
Sau
khi
tôi
từ
bỏ
sữa
và
các
loại
sản
phẩm
có
sữa
độ
vài
hôm
thì
cục
u
bắt
đầu
teo
dần.
Một
tuần
lễ
sau,
cục
bướu
ở
cổ
bắt
đầu
ngứa,
sau
đó
nó
mềm
dần
và
thu
nhỏ
hình
dạng
lại.
Trên
đồ
thị
theo
dõi,
lằn
ghi
chú
có
chiều
hướng
đi
xuống
và
cuối
cùng
nó
xuống
sát
lằn
ngang
ở
phía
dưới
(tức
0
độ).
Một
buổi
chiều
thứ
Bảy,
sáu
tuần
lễ
sau
khi
tôi
bỏ
luôn
tất
cả
thành
phần
của
sữa
trong
thực
đơn
của
tôi
nghĩa
là
không
còn
dính
dáng
gì
tới
thức
ăn
có
nguồn
gốc
động
vật,
tôi
ngồi
thiền
một
tiếng
đồng
hồ
và
sau
đó
kiểm
tra
lại
cục
bướu
thì
nó
đã
hoàn
toàn
biến
mất.
Tôi
là
người
đã
tự
theo
dõi
sự
diễn
tiến
bệnh
trạng
của
mình
từ
đầu
tới
cuối.
Giờ
phút
này
không
có
sự
vui
mừng
nào
bằng.
Tôi
vội
xuống
lầu
và
nhờ
chồng
tôi
kiểm
tra
cẩn
thận
lần
nữa.
Kết
quả
anh
cũng
chẳng
tìm
thấy
gì.
Thứ
Năm
tuần
lễ
sau
đó,
tôi
trở
lại
phòng
mạch
của
vị
bác
sĩ
chuyên
khoa
để
tái
khám.
Ông
đã
vô
cùng
sửng
sốt
và
vui
mừng
bảo
rằng:
"Tôi
không
còn
tìm
thấy
dấu
vết
nào
của
bệnh
ung
thư
trong
cơ
thể
của
bà
nữa
cả
!"
TRẦN
ANH
KIỆT
Sưu
tầm