Một
nền
nông
nghiệp
sản
xuất
lớn
nhưng
vẫn
đảm
bảo
được
quyền
sở
hữu
của
người
nông
dân
trên
từng
thửa
ruộng
của
mình?
Hay
hạn
chế
nhập
khẩu
nông
sản
khi
Việt
Nam
đã
là
thành
viên
WTO?
Chiều
ngày
23/11/2011,
trong
phiên
chất
vấn
Bộ
trưởng
Bộ
Nông
nghiệp
và
Phát
triển
Nông
thôn
–
Cao
Đức
Phát,
Đại
biểu
Quốc
hội
–
doanh
nhân
,
chủ
tịch
Hội
Đồng
Quản
Trị
của
Liên
hiệp
Hợp
tác
xã
Thương
mại
TP.Hồ
Chí
Minh
(Sài
Gòn
Co.op)
-
Đơn
vị
chủ
quản
hệ
thống
chuỗi
Siêu
thị
Co.op
Mart
đã
có
những
câu
hỏi
được
đánh
giá
là
khó,
nhưng
thực
tế
dành
cho
Bộ
trưởng.
Khó
nhưng
chúng
ta
vẫn
có
thể
làm
được
Đại
biểu:
Bộ
trưởng
đã
có
những
giải
pháp
gì
để
tổ
chức
mô
hình
sản
xuất
phù
hợp
với
đòi
hỏi
của
một
nền
nông
nghiệp
sản
xuất
lớn
nhưng
vẫn
bảo
đảm
được
quyền
sở
hữu
của
người
nông
dân
trên
từng
thửa
ruộng
của
mình?
Bộ
Trưởng:
Đúng
là
trên
diện
tích
có
10,1
triệu
ha,
chúng
ta
có
13,5
triệu
hộ
nông
dân
canh
tác
và
có
hàng
chục
triệu
mảnh
ruộng
nhỏ,
trong
điều
kiện
đó
chúng
ta
lại
muốn
vươn
lên
một
nền
sản
xuất
nông
nghiệp
hàng
hóa
quy
mô
lớn.
Đây
là
một
bài
toán
khó,
nhưng
chúng
ta
vẫn
có
thể
làm
được
và
nước
ta
trong
nhiều
lĩnh
vực
chúng
ta
đã
làm
được
điều
đó
như:
hình
thành
được
các
vùng
sản
xuất
cao
su,
cà
phê
quy
mô
lớn,
những
vùng
sản
xuất
lúa
gạo
quy
mô
lớn.
Theo
đại
biểu
Hòa:
Sản
xuất
nông
nghiệp
chỉ
có
thể
phát
triển
và
đi
lên
trên
nền
tảng
của
một
nền
sản
xuất
nông
nghiệp
quy
mô
lớn
và
có
khả
năng
ứng
dụng
các
khoa
học
kỹ
thuật
cũng
như
các
tiến
bộ
của
công
nghệ
để
bảo
đảm
được
năng
suất,
chất
lượng
và
hiệu
quả.
Để
làm
được
điều
đó
đòi
hỏi
một
quy
mô
đầu
tư
lớn
và
có
khả
năng
dẫn
đến
tích
tụ
ruộng
đất
trên
những
cánh
đồng
có
quy
mô
diện
tích
trồng
lớn.
Trong
khi
đó
đại
bộ
phận
nông
dân
chúng
ta
trong
điều
kiện
sản
xuất
phân
tán,
manh
mún
trên
những
thửa
ruộng
nhỏ. |
Chúng
ta
đang
từng
bước
hình
thành
những
vùng
sản
xuất
về
thủy
sản,
các
cơ
sở
chăn
nuôi
quy
mô
lớn.
Ngay
trong
trồng
trọt
ở
Nam
Bộ
hiện
nay
phong
trào
xây
dựng
cánh
đồng
mẫu
lớn
cũng
là
một
cách,
hay
là
ở
miền
Bắc
những
cách
tổ
chức
là
cùng
cha,
nhưng
khác
chủ,
cùng
nhau
sản
xuất
và
cùng
thời
điểm,
cùng
giống
lúa
thì
cũng
là
cách
để
tạo
ra
sản
xuất
khối
lượng
hàng
hóa
lớn
hơn
thì
đó
là
một
con
đường.
Con
đường
thứ
hai
nữa
là
phát
triển
các
hình
thức
hợp
tác
trong
nông
nghiệp.
Đại
biểu:
Như
vậy
hiện
nay
đã
hình
thành
những
sự
hợp
tác
của
người
nông
dân,
vấn
đề
tôi
quan
tâm
ở
đây
là
sự
tích
tụ,
tập
hợp
một
cách
tự
phát
của
nông
dân
hay
dưới
góc
độ
quản
lý
Nhà
nước
.
Chúng
ta
đã
có
những
tác
động
gì
để
thúc
đẩy
nhanh
quá
trình
này,
thậm
chí
chúng
ta
đã
có
tham
mưu
đề
xuất
những
chính
sách
gì
để
khuyến
khích
và
thúc
đẩy
nhanh
quá
trình
này?
Bộ
Trưởng:
Việc
hình
thành
các
vùng
sản
xuất
tập
trung
quy
mô
lớn
không
phải
một
cách
tự
phát
mà
trong
nhiều
năm
qua
đã
có
sự
tác
động
của
Nhà
nước.
Trước
hết
đó
là
bằng
công
tác
quy
hoạch
ngành
nông
nghiệp
và
phát
triển
nông
thôn
đã
cùng
với
các
địa
phương
liên
tục
rà
soát
và
hướng
dẫn
nông
dân
để
hình
thành
các
vùng
cao
su,
cà
phê,
mía,
đường,
chè,
các
vùng
sản
xuất
lúa,
gạo
chất
lượng
cao
v.v...
hay
là
các
vùng
thủy
sản,
lâm
nghiệp.
Sau
khi
có
quy
hoạch
thì
cũng
đã
có
cơ
chế
chính
sách
để
hỗ
trợ
bằng
cách
đầu
tư
xây
dựng
các
hệ
thống
thủy
lợi,
chính
sách
hỗ
trợ
trực
tiếp
từ
nhân
dân,
trồng
cao
su,
trồng
các
loại
cà
phê,
trồng
chè
trong
nhiều
năm
qua.
Hướng
dẫn
nhân
dân
sử
dụng
các
giống
tốt
và
áp
dụng
các
quy
trình
kỹ
thuật;
những
cánh
đồng
mẫu
lớn
cũng
có
sự
kết
hợp
rất
chặt
chẽ
giữa
các
cơ
quan
chuyên
môn
đại
diện
cho
Nhà
nước
cùng
với
các
doanh
nghiệp
để
hỗ
trợ
và
hướng
dẫn
bà
con
nông
dân.
Đã
có
KH
điều
chỉnh
gần
1.000
tiêu
chuẩn
cho
hàng
nông
sản.
Nhưng
không
đủ.
Đại
biểu:
Bộ
nông
nghiệp
chúng
ta
đã
có
những
giải
pháp
gì
để
giúp
phát
triển
và
bảo
vệ
sản
xuất
nông
nghiệp
có
những
sản
phẩm
mà
chúng
ta
có
đủ,
có
thừa
khả
năng
để
sản
xuất?
Bộ
Trưởng:
chúng
tôi
đã
đưa
ra
những
giải
pháp
phù
hợp
với
cam
kết
của
chúng
ta
với
các
tổ
chức
quốc
tế,
đặc
biệt
là
với
WTO
và
thông
lệ
quốc
tế.
Từ
năm
ngoái
chúng
tôi
đã
ban
hành
những
thông
tư
có
quy
định
rằng
từ
sau
khi
thông
tư
ban
hành
thì
các
nước
xuất
khẩu
nông
sản
vào
nước
Việt
Nam
phải
thông
báo
trước
về
chế
độ
kiểm
soát
chất
lượng
ở
nước
mình,
thông
báo
về
năng
lực
của
doanh
nghiệp
và
thông
báo
về
các
đặc
tính
của
những
loại
nông
sản
đó.
Trước
mắt
chúng
tôi
kiểm
soát
trên
cơ
sở
những
xác
nhận
đó.
Nhưng
lâu
dài
sẽ
tiến
tới
như
các
nước
thực
hiện
đối
với
nước
ta
là
sẽ
cử
người
đến
tận
nơi
kiểm
soát
ở
cơ
sở.
Mặt
khác
nữa
cũng
đưa
ra
tiêu
chuẩn
kỹ
thuật
phù
hợp
với
thông
lệ
quốc
tế
để
đảm
bảo
rằng
nông
sản
nhập
khẩu
vào
nước
ta
đảm
bảo
chất
lượng,
an
toàn
vệ
sinh
thực
phẩm,
phù
hợp
với
thông
lệ
quốc
tế.
Đại
biểu:
Khi
nào
chúng
ta
có
được
hàng
rào
kỹ
thuật
để
bảo
vệ
sản
xuất
nông
sản
trong
nước
?
Bộ
Trưởng:
Đây
là
vấn
đề
mà
Chính
phủ
đã
chỉ
đạo
và
chúng
tôi,
các
bộ,
Bộ
nông
nghiệp
và
phát
triển
nông
thôn,
Bộ
khoa
học
và
công
nghệ,
Bộ
công
thương
đã
phối
hợp
với
nhau
và
liên
tục
thực
hiện.
Ngoài
việc
ban
hành
những
văn
bản
pháp
luật,
chúng
tôi
đã
chỉ
đạo
rất
quyết
liệt,
xây
dựng
các
tiêu
chuẩn
kỹ
thuật
và
điều
chỉnh
các
tiêu
chuẩn
kỹ
thuật
phù
hợp
với
những
quy
định
quốc
tế.
Riêng
ngành
nông
nghiệp
và
phát
triển
nông
thôn
chúng
tôi
đã
có
kế
hoạch
điều
chỉnh
tới
gần
1.000
tiêu
chuẩn.
Nhưng
tôi
tin
rằng
ngay
1.000
tiêu
chuẩn
đó
cũng
không
đủ,
bởi
vì
các
mặt
hàng
của
chúng
ta
rất
nhiều.
Do
đó,
bên
cạnh
việc
gấp
rút
xây
dựng
các
tiêu
chuẩn,
quy
chuẩn
của
Việt
Nam,
chúng
tôi
cũng
nghiên
cứu
để
áp
dụng
những
tiêu
chuẩn
của
quốc
tế.
Nền
nông
nghiệp
của
chúng
ta
hiện
nay
đã
hội
nhập
rất
sâu
sắc
với
thị
trường
quốc
tế
nên
hầu
như
chúng
ta
phải
sản
xuất
theo
các
tiêu
chuẩn
quốc
tế
và
chúng
tôi
đang
tiếp
tục
kiên
trì
thực
hiện
đường
hướng
này.
Việt
Nam
là
một
trong
những
nước
sản
xuất
rất
nhiều
loại
nông
sản,
tuy
nhiên
trên
thị
trường
vẫn
tràn
ngập
những
nông
sản
nhập
khẩu
từ
các
nước,
đặc
biệt
từ
Trung
Quốc
và
chúng
ta
không
kiểm
soát
được
chất
lượng
của
các
loại
sản
phẩm
này |