Ông
Nguyễn
Thái
Hùng,
thay
mặt
Chi
Hội
dệt
may
Sông
Hậu
cho
biết
thêm:
các
DN
may
mặc
ở
miền
Tây
đều
gia
công
hoặc
“gia
công
lại
gia
công”,
đơn
hàng
qua
2-3
trung
gian
mới
tới
các
DN,
nhưng
chủ
yếu
là
đơn
hàng
nhỏ.
Để
giữ
người
lao
động,
hơn
ai
hết
các
ông
chủ
(giám
đốc)
công
ty
phải
tìm
đủ
mọi
cách,
đồng
thời
chịu
áp
lực
từ
các
cổ
đông
nếu
hoạt
động
sản
xuất
kinh
doanh
không
hiệu
quả.
Công
nhân
làm
việc,
họ
đóng
bảo
hiểm
như
mọi
người
nhưng
thực
tế,
phúc
lợi
xã
hội
họ
nhận
được
lại
không
tương
xứng
(con
cái
đi
học
do
không
có
hộ
khẩu
ở
thành
phố
thì
không
có
chỗ,
y
tế,
chăm
sóc
sức
khỏe,…).
Để
có
năng
suất
cao
và
tránh
áp
lực
tiền
lương,
các
DN
phải
tự
động
hóa
dù
lợi
nhuận
không
có
để
tái
đầu
tư.
Ông
Hùng
dẫn
chứng,
công
ty
May
Tây
Đô
đã
3
năm
nay
không
chia
lãi
cổ
đông
để
dành
tiền
mua
trang
thiết
bị;
Công
ty
may
Meko
những
năm
trước
chia
lãi
hệ
số
3
tới
4
(từ
3-4
tháng
lương),
nhưng
năm
2015
chỉ
còn
1.
Lao
động
làm
việc
tại
công
ty
may
Tây
Đô
Ảnh:
Ngọc
Bích
Ông
Tô
Văn
An,
Phó
giám
đốc
Công
ty
may
Meko
cho
biết:
Công
ty
may
Meko
gia
công
hàng
may
mặc
xuất
khẩu,
có
3.150
lao
động,
tình
hình
sản
xuất
kinh
doanh,
lợi
nhuận những
năm
gần
đây
đều
năm
sau
giảm
hơn
năm
trước
do:
Lương
tối
thiểu
tăng
hàng
năm
bình
quân
20%/năm
trong
khi
năng
suất
lao
động
chỉ
tăng
3%/năm,
giá
gia
công
do
cạnh
tranh
thị
trường
không
thể
tăng
được.
Kết
quả
sản
xuất
kinh
doanh
năm
2015
là
316
tỷ
đồng
nhưng
lợi
nhuận
trước
thuế
chỉ
có
7,6
tỷ
đồng.
Dự
kiến,
năm
2016
đạt
kết
quả
321
tỷ
đồng
nhưng
lương
tối
thiểu
lại
tăng
12,4%
kéo
theo
các
khoản
BHXH,
BHYT,
BHTN,…
công
ty
không
còn
lợi
nhuận
để
tái
đầu
tư,
trang
bị
thêm
máy
móc
thiết
bị
mới.
Người
lao
động
trong
ngành
dệt
may
ở
miền
Tây
là
dân
nghèo
ở
nông
thôn
ra
làm
việc,
họ
chỉ
mong
thu
nhập
hàng
tháng
đủ
trang
trải
gia
đình,
trong
khi
thu
nhập
thời
điểm
hiện
tại
sau
khi
đóng
bảo
hiểm
vẫn
chưa
đủ
sống,
nếu
lương
tối
thiểu
tiếp
tục
tăng
và
bắt
buộc
phải
đóng
theo
các
khoản
thu
nhập
thực
tế
(đến
năm
2018)
dẫn
đến
thu
nhập
người
lao
động
tiếp
tục
giảm.
“Tăng
lương
tối
thiểu
phải
song
hành
cùng
tăng
năng
suất
lao
động
và
phù
hợp
với
sức
khỏe
của
doanh
nghiệp”,
ông
Nguyễn
Đình
Ngộ,
giám
đốc
Công
ty
may
Việt
Thành
cho
rằng
hầu
hết
doanh
nghiệp
may
mặc
chỉ
gia
công
cho
các
công
ty,
tập
đoàn
lớn,
doanh
nghiệp
và
người
lao
động
phải
đóng
bảo
hiểm
xã
hội
tổng
cộng
32,5%
(doanh
nghiệp
đóng
22%,
người
lao
động
đóng
10,5%),
quy
định
chỉ
cho
phép
làm
ngoài
giờ
tối
đa
không
quá
300
giờ/năm,
một
số
thời
gian
cao
điểm
hay
những
lao
động
làm
giỏi,
muốn
tăng
ca
để
kiếm
thêm
thu
nhập
cũng
khó.
Theo
tính
toán
của
ông
Nguyễn
Hậu
Giang,
công
ty
may
Tây
Đô:
Năm
2015,
cả
doanh
thu
kinh
doanh
và
sản
xuất
của
công
ty
được
186
tỷ,
nhưng
lợi
nhuận
sau
khi
trừ
các
khoản
chỉ
còn
7,8
tỷ
đồng.
Dự
kiến
năm
2016
chỉ
còn
4,9
tỷ
đồng
nếu
doanh
thu
đạt
201
tỷ
đồng.
Tổng
số
lao
động
của
công
ty
là
1.663
lao
động,
số
lao
động
nữ
chiếm
tới
80%.
Lao
động
dịch
chuyển,
ra
vào
khiến
công
ty
mất
người
có
tay
nghề,
tốn
chi
phí
đào
tạo,
trong
khi
các
khoản
bảo
hiểm
thì
vẫn
phải
đóng
như
nhau.
Chi
phí
đầu
tư
cao,
yếu
tố
thị
trường,
cộng
nhiều
khoản
khác
tăng
lên
khiến
công
ty
không
thể
đặt
chiến
lược
trong
dài
hạn
được
vì
không
tính
toán
được
hết
các
tình
huống
xảy
ra.
Trên
thực
tế,
lao
động
chỉ
quan
tâm
số
tiền
thực
nhận
(bao
gồm
lương
cứng
và
lương
mềm),
trong
năm
2016
tiền
lương
bình
quân
của
người
lao
động
công
ty
may
Tây
Đô
là
6
triệu
đồng/lao
động/tháng.
Năng
suất
lao
động
của
công
nhân
ở
ĐBSCL
thấp
hơn
so
với
khu
vực
TP
Hồ
Chí
Minh,
Đồng
Nai,
Bình
Dương
do
khu
vực
đó
dân
nhập
cư
nhiều,
công
nhân
ở
ĐBSCL
phần
đông
có
vườn,
rộng,
nhà
ở
gần
nên
họ
có
tâm
lý
ỷ
lại,
tính
kỷ
luật
không
cao,
đồng
thời,
suất
đầu
tư
tại
ĐBSCL
cao
hơn
so
với
các
vùng
khác,
các
công
ty
FDI
họ
có
công
ty
mẹ
ở
nước
ngoài,
còn
chuyển
giá
được,
trong
khi
nguồn
nguyên
liệu
dệt
may
cho
đến
nay
Việt
Nam
vẫn
phải
phụ
thuộc
nước
ngoài
quá
nhiều.
Ông
Thái
Hùng
đề
xuất:
1/
Mạnh
dạn
bỏ
phí
công
đoàn
mà
DN
đang
gánh
2%,
còn
nếu
không
thì
phần
chăm
lo
cho
người
lao
động
hãy
để
tự
bản
thân
DN
lo
chứ
không
thể
giữ
65%
cho
công
đoàn
cơ
sở,
nộp
35%
còn
lại
cho
công
đoàn
cấp
trên
nữa;
2/Nhà
nước
quan
tâm
tới
chính
sách
đào
tạo
nghề;
3/
Luật
lao
động:
xem
xét
điều
chỉnh
thời
gian
làm
việc
ngoài
giờ
lên
400-550
giờ/năm;
4/
Việc
tăng
lương,
mức
đóng
bảo
hiểm
xã
hội
theo
mặt
bằng
của
các
nước
trong
khu
vực
và
tùy
vào
tình
hình
thực
tế
của
DN.
“Làm
doanh
nghiệp
hiện
nay
khổ
trăm
bề,
tôi
mạnh
dạn
đề
xuất
những
điểm
trên
để
cởi
trói,
cho
doanh
nghiệp
1
liều
thuốc
hồi
sinh,
tái
đầu
tư.”
Ông
Hùng
nói.
Ông
Phạm
Minh
Huân,
Chủ
tịch
Hội
đồng
tiền
lương
Quốc
gia
chia
sẻ
những
khó
khăn
của
DN
và
đồng
tình
là
DN
đang
gặp
nhiều
thách
thức.
Tăng
lương
tối
thiểu
là
xu
thế
toàn
cầu,
thuộc
về
chính
sách
vĩ
mô,
nhưng
cũng
cần
xét
tới
tình
hình
thực
tế
mà
điều
chỉnh
vừa
phải.
Khu
vực
miền
Tây
hiện
không
còn
là
mảnh
đất
trù
phú,
đi
về
vùng
nông
thôn
thấy
người
dân
nghèo
còn
rất
nhiều.
Nếu
tăng
lương
không
xét
kỹ
tới
sức
khỏe
DN
thì
chính
sách
sẽ
không
ổn
định.
Làm
thế
nào
để
đảm
bảo
cuộc
sống
người
lao
động
và
DN
đang
là
bài
toán
khó
cho
nhà
quản
lý.
Cả
nước
có
54
triệu
người
trong
độ
tuổi
lao
động
nhưng
chưa
tới
20%
số
người
tham
gia
BHXH,
về
lâu
dài
cần
có
cách
thay
đổi
suy
nghĩ
về
phúc
lợi,
lo
cho
mai
sau.
Ngọc
Bích