Những
năm
gần
đây,
các
tỉnh
đồng
bằng
sông
Cửu
Long
(ÐBSCL)
đã
có
rất
nhiều
nỗ
lực
trong
việc
xúc
tiến
thương
mại
và
kêu
gọi
đầu
tư,
đặc
biệt
là
đầu
tư
trực
tiếp
nước
ngoài
-
FDI.
Nhưng
thực
tế
cho
thấy,
nguồn
vốn
FDI
vào
khu
vực
ÐBSCL
cực
kỳ
ít,
đặc
biệt
là
ở
lĩnh
vực
nông
nghiệp.
Có
quá
ít
cơ
hội
cho
nền
nông
nghiệp
của
đất
nước
nói
chung
và
vùng
ÐBSCL
nói
riêng
tiếp
cận
với
các
nhà
đầu
tư
nước
ngoài,
hơn
nữa,
có
quá
nhiều
trở
ngại
trong
việc
thu
hút
đầu
tư.
Ðó
là
tại
ÐBSCL,
người
nuôi
trồng
thủy
sản
và
trồng
lúa
luôn
đối
mặt
với
nhiều
khó
khăn
về
giá
và
đầu
ra
của
sản
phẩm.
Việc
định
giá
bán
ra
luôn
phụ
thuộc
những
thông
tin
thiếu
chính
xác
và
không
có
định
hướng
rõ
ràng.
Thực
tế,
mức
thu
nhập
của
nông
dân
và
các
thương
lái,
các
chủ
ghe
tàu
thu
mua,...
có
sự
chênh
lệch
với
nhau
khá
lớn.
Theo
số
liệu
tính
toán
và
thống
kê
của
Ngân
hàng
Thế
giới
(WB)
vào
cuối
năm
2010:
Trong
khi
thu
nhập
bình
quân
của
nông
dân:
860
USD/người/năm,
thì
thương
lái:
4.000
USD/người/năm;
chủ
ghe
thu
mua:
15.000
USD/người/năm;
chủ
hãng
vận
tải:
25.600
USD/người/năm.
Sự
chênh
lệch
thu
nhập
này
cho
thấy
nhiều
nghịch
lý
trong
hệ
thống
thu
mua
lúa
gạo.
ÐBSCL
có
rất
nhiều
nơi
gặp
phải
tình
trạng
nông
dân
bán
lúa
nhưng
doanh
nghiệp
lại
thu
mua
gạo,
điều
này
trước
mắt
người
nông
dân
sẽ
phải
mất
đi
một
số
lợi
nhuận
vào
các
thương
lái
trung
gian.
Tình
huống
khác
đơn
giản
như
khi
thị
trường
trầm
lắng,
đầu
vào
dồi
dào,
doanh
nghiệp
ngừng
thu
mua,
tạo
nên
một
áp
lực
rất
lớn
cho
những
nông
dân
cần
quay
vốn
để
tái
đầu
tư
vào
vụ
mới.
Chính
những
bất
cập
về
giá
cả
cũng
như
sự
mập
mờ
thông
tin
về
thị
trường
cũng
là
yếu
tố
làm
cho
các
nhà
đầu
tư
không
cảm
thấy
an
toàn
khi
tham
gia
đầu
tư.
Hạ
tầng
quá
kém
cũng
là
một
trong
những
trở
ngại
lớn,
làm
chùn
bước
bất
cứ
doanh
nghiệp
nước
ngoài
nào
muốn
đầu
tư.
Hạ
tầng
của
khu
vực
ÐBSCL
vẫn
còn
nhiều
thiếu
sót
và
chậm
trễ,
nhất
là
trong
việc
phát
triển
cơ
sở
hạ
tầng
trọng
yếu
như:
hệ
thống
đường
sá,
cầu
cống,
điện,
bến
cảng,
hệ
thống
cấp
thoát
nước...
Mặc
dù
qua
nhiều
lần
thay
đổi
chính
sách
đối
với
Luật
Ðầu
tư
nước
ngoài
nhằm
trải
thảm
đón
các
nhà
đầu
tư,
nhưng
tất
cả
những
sự
thay
đổi
đó
vẫn
không
làm
sao
khỏa
lấp
được
những
khiếm
khuyết:
Tồn
tại
quá
nhiều
giấy
phép,
quy
định
và
những
thủ
tục
không
cần
thiết.
Có
thể
nói,
các
quy
định
của
luật
pháp
về
đầu
tư
FDI
hiện
nay
ít
phù
hợp
với
ngành
nông
nghiệp
và
công
nghiệp
chế
biến
nông
sản,
việc
phối
hợp
giữa
các
cơ
quan
địa
phương
trong
thẩm
định
và
cấp
phép
dự
án
chưa
nghiêm
túc
và
rõ
ràng,
các
dự
án
thường
phải
mất
rất
nhiều
thời
gian
để
chờ
phê
duyệt.
Thêm
vào
đó,
thủ
tục
còn
thể
hiện
nhiều
khái
niệm
mù
mờ,
không
ít
quy
định
bị
trùng
lắp,
mâu
thuẫn
chồng
chéo
giữa
các
chuyên
ngành
đầu
tư
với
nhau.
Chính
sách
thuế,
chính
sách
sử
dụng
đất
và
chế
độ
ưu
đãi
đầu
tư
còn
chưa
thống
nhất
và
rõ
ràng,
không
đủ
hấp
dẫn
các
nhà
đầu
tư
so
với
các
lĩnh
vực
phi
nông
nghiệp
khác.
Nhà
nước
chưa
thực
sự
tạo
điều
kiện
ưu
đãi,
không
có
hệ
thống
bảo
hiểm
nông
nghiệp
khiến
cho
các
nhà
đầu
tư
không
thiết
tha
với
lĩnh
vực
vốn
tiềm
ẩn
nhiều
rủi
ro
này.
Cuối
cùng,
thu
nhập
thấp,
mức
sống
thấp,
sự
phân
bố
giàu
nghèo
quá
chênh
lệch
tạo
nên
một
hệ
lụy
đáng
buồn
là
trình
độ
dân
trí
của
nông
dân
chưa
cao.
Những
khái
niệm
về
tiêu
chuẩn
hiện
đại
cần
thiết
cho
một
nền
nông
nghiệp
hàng
hóa
như:
tuân
theo
các
chu
trình
sản
xuất,
kiểm
tra
chất
lượng,
diễn
biến
giá,
dự
báo
giá,
thông
tin
thị
trường
và
hàng
loạt
các
tiêu
chuẩn,
quy
định
khác...
còn
rất
xa
lạ
và
mơ
hồ
với
nông
dân.
Do
đó,
điểm
giao
nhau
giữa
các
nhà
đầu
tư
và
người
nông
dân
vẫn
chưa
được
tìm
thấy
nên
rất
khó
để
thỏa
hiệp,
để
hợp
tác
hai
bên
cùng
có
lợi.
Các
chuyên
gia
của
WB
khuyến
cáo
rằng,
Việt
Nam
nếu
muốn
vươn
mình
phát
triển
thì
phải
gắn
kết
sự
phát
triển
kinh
tế
với
phát
triển
nông
nghiệp.
Vì
chính
nông
nghiệp
là
yếu
tố
cực
kỳ
quan
trọng
để
xóa
đói,
giảm
nghèo,
phải
xác
định
rằng
trong
điều
kiện
ngân
sách
nhà
nước
có
hạn
thì
cần
thiết
phải
có
sự
đột
phá
về
chính
sách
để
thu
hút
các
nguồn
đầu
tư
từ
nước
ngoài.
Ðể
làm
tốt
được
việc
này,
cần
phải
mất
rất
nhiều
thời
gian
để
quy
hoạch,
để
thay
đổi,
nhưng
trước
mắt
vẫn
nên
tập
trung
tháo
gỡ
một
số
khó
khăn
còn
tồn
đọng
và
làm
tốt
các
vấn
đề
sau
đây:
Một
là,
xây
dựng
hệ
thống
thu
mua,
tạo
đầu
ra
an
toàn
cho
lúa
gạo
và
các
mặt
hàng
nông
sản
khác.
Tăng
cường
năng
lực
phân
tích
và
tiếp
thị,
phát
triển
sản
phẩm,
xây
dựng
thương
hiệu
nông
sản
Việt
Nam
bằng
việc
đẩy
mạnh
các
hoạt
động
xúc
tiến
thương
mại.
Hai
là,
tập
trung
vốn
ngân
sách
để
đầu
tư
phát
triển
cơ
sở
hạ
tầng
nông
thôn,
làm
tốt
công
việc
thủy
lợi
nội
đồng,
đường
liên
thôn
liên
xã,
xây
dựng
và
quy
hoạch
hệ
thống
dẫn
nước
trong
sản
xuất
nông
nghiệp,
trong
việc
xây
dựng
hệ
thống
nước
thải
nhằm
hạn
chế
tối
đa
tình
trạng
ô
nhiễm
môi
trường
trong
sản
xuất
nông
nghiệp
và
chế
biến
nông
sản,
vì
thực
tế
tâm
lý
các
nhà
đầu
tư
thường
e
ngại
khi
phải
bỏ
một
khoản
chi
phí
khá
lớn
cho
việc
xử
lý
chất
thải
và
chống
ô
nhiễm
môi
trường.
Ba
là,
thực
hiện
các
nghiên
cứu
về
các
điều
kiện
thực
tế
khi
thu
hút
FDI
trong
nông
nghiệp
nông
thôn
như
các
chính
sách
sử
dụng
đất,
thuế,
tín
dụng
và
các
chế
độ
ưu
đãi
đầu
tư
trong
nông
nghiệp.
Bốn
là,
cần
tiếp
tục
nghiên
cứu
các
giải
pháp
hỗ
trợ
đầu
tư
xây
dựng
nhằm
tăng
cường
khả
năng
chủ
động
trong
việc
phòng,
chống
thiên
tai.
Nên
nghiên
cứu
và
thành
lập
quỹ
bảo
hiểm
nông
nghiệp,
quỹ
này
có
thể
được
sử
dụng
để
trợ
cấp
cho
nông
dân
và
các
doanh
nghiệp
nông
nghiệp
khi
gặp
tổn
thất
vì
thiên
tai,
vì
rủi
ro
do
biến
động
giá,
do
dịch
bệnh
hay
do
bất
kỳ
một
nguyên
nhân
khách
quan
nào
khác.
Năm
là,
phát
triển
hệ
thống
đào
tạo
nghề
ở
nông
thôn,
hệ
thống
khuyến
nông,
chuyển
giao
kỹ
thuật,
bồi
dưỡng
và
nâng
cao
kiến
thức
về
kinh
tế
và
kiến
thức
về
thị
trường
cho
người
lao
động
nông
thôn.
Việc
làm
này
đòi
hỏi
nhiều
thời
gian
và
phải
có
những
biện
pháp
áp
dụng
thích
hợp
vì
họ
đa
phần
là
nông
dân
-
là
các
chủ
thể
sản
xuất
đơn
lẻ,
là
các
hộ
gia
đình
với
phương
thức
sản
xuất
mang
tính
truyền
thống,
kỹ
thuật
giản
đơn
mang
tính
chất
tích
lũy
kinh
nghiệm.
Thói
quen
của
họ
là
tự
quyết
định
đầu
tư
để
mua
sắm
vật
tư
sản
xuất
như
con
giống,
cây
trồng,
phân
bón,
thuốc
bảo
vệ
thực
vật,
thuốc
thú
y,
trả
công
lao
động,...
Tất
cả
được
thực
hiện
trong
điều
kiện
thiếu
thốn
các
dịch
vụ
cung
ứng
chuyên
nghiệp.
Chính
những
phương
thức
sản
xuất
như
vậy
đã
không
hấp
dẫn
các
nhà
đầu
tư
FDI
làm
ăn
với
nông
dân
ta.
Vì
thế,
vấn
đề
mấu
chốt
ở
đây
là
phải
trang
bị
cho
nông
dân
vốn
kiến
thức
và
hiểu
biết
nhất
định
về
chất
lượng,
sản
lượng
của
nguồn
nguyên
liệu
nông
sản
trước
khi
chế
biến
và
xuất
khẩu,
giảm
dần
tình
trạng
xuất
thô
và
tạo
lực
đẩy
cho
việc
phát
triển
các
thương
hiệu
nông
sản
chất
lượng
cao.