Trước
đây
khi
nói
đến
“tấn
công”,
người
ta
thường
hình
dung
đến
một
hành
động
hữu
hình,
quyết
liệt
giữa
những
thực
thể
tự
nhiên.
Nhưng
bây
giờ,
nhiều
cuộc
“tấn
công”
vô
hình
nhưng
mức
độ
quyết
liệt
lại
rất
cao
mà
không
phải
lúc
nào
con
người
cũng
nhận
ra
được,
như
những
cuộc
“tấn
công”
trên
internet
hay
“tấn
công”
vào
nhân
cách,
uy
tín
của
con
người,
thương
hiệu
của
sản
phẩm...
Các
loại
trái
cây
đặc
sản
Việt
Nam
cần
được
xây
dựng
và
phát
triển
thương
hiệu
riêng. Ảnh:
Thanh
Hảo
|
Việt
Nam
đang
nỗ
lực
xây
dựng
hình
ảnh,
thương
hiệu
của
nông
sản
Việt
Nam
không
chỉ
cho
việc
xuất
khẩu
sang
các
thị
trường
khác
mà
còn
cho
cả
ngay
thị
trường
trong
nước.
Từ
một
nước
phải
nhập
khẩu
gạo
nước
ngoài
để
cứu
đói
thì
giờ
đây
Việt
Nam
đã
xuất
khẩu
gạo,
chè,
càphê,
hồ
tiêu,
tôm,
cá
với
sản
lượng
lớn
không
nhất
thì
nhì
ở
trên
thế
giới.
Đây
thực
sự
là
một
thành
tích
đáng
kể
của
ngành
nông
nghiệp
Việt
Nam
và
của
người
nông
dân
Việt
Nam.
Nhưng
sản
lượng
nông
sản
Việt
Nam
tuy
lớn
nhưng
dường
như
nông
sản
Việt
Nam
lại
gặp
khó
khăn
khi
tiếp
cận
đến
người
tiêu
dùng
nước
ngoài
và
thậm
chí
cả
người
trong
nước.
Nhiều
cuộc
hội
thảo
của
các
nhà
khoa
học,
các
nhà
quản
lý
“từ
đầu
bờ”
cho
đến
“đầu
bàn”
về
việc
làm
sao
xây
dựng
được
thương
hiệu
cho
“nông
sản
Việt
Nam”.
Nhiều
tỉ
đồng
từ
ngân
sách
đã
được
chi
ra
cho
việc
xây
dựng
thương
hiệu
theo
hướng
“truyền
thông
tiếp
thị”,
“tấn
công
vào
thị
trường”...
Nhưng
dường
như
không
mấy
ai
quan
tâm
rằng
thương
hiệu
nông
sản
Việt
Nam
lại
đang
bị
“tấn
công”
mãnh
liệt
ngay
khi
chưa
được
hình
thành.
Sự
tấn
công
này
nguy
hiểm
cho
nhiều
đối
tượng,
như
nông
sản
và
người
tiêu
dùng
nông
sản.
Đơn
cử
gần
đây
nhất
cả
nước
xôn
xao
về
việc
một
số
nông
dân
đã
trộn
bùn,
phân
lân
vào
chè
khô
(hay
còn
gọi
là
trà
khô)
để
được
tăng
khối
lượng
và
mẫu
mã
đẹp.
Những
người
nông
dân
đã
chất
phác
khi
trả
lời
phỏng
vấn
rằng
mình
làm
như
vậy
là
do
khách
hàng
ở
nước
láng
giềng
yêu
cầu.
Người
mua
dùng
chè
đó
để
uống
hay
sử
dụng
vào
mục
đích
nào
thì
đó
vẫn
là
quyền
của
người
mua.
Người
bán
có
lãi
thì
làm.
Sự
việc
này
bắt
đầu
từ
bao
giờ
không
ai
đề
cập
mà
chỉ
khi
chính
nước
láng
giềng
đó
lại
thông
báo
ở
quốc
gia
của
họ
là
“chè
khô
Việt
Nam
không
an
toàn”
thì
chính
quyền
mới
ngỡ
ngàng.
Nhưng
“kiếm
củi
ba
năm
thiêu
một
giờ”
là
một
ngạn
ngữ
“thương
hiệu”
tiêu
biểu.
Không
biết
đến
bao
giờ
cụm
từ
“chè
khô
Việt
Nam
sạch,
không
hoá
chất”
lại
có
thể
ngự
trị
trong
tâm
tưởng
của
người
tiêu
dùng
nước
láng
giềng
và
ngay
cả
ở
Việt
Nam?
Nếu
như
ai
đó
cho
rằng
việc
làm
chè
“bẩn”
này
chỉ
mới
diễn
ra
trong
năm
nay
thì
cái
giá
mà
ngành
chè
Việt
Nam,
nông
dân
trồng
chè
của
Việt
Nam
phải
trả
là
quá
đắt.
Chỉ
với
một
ít
tiền
để
chấp
nhận
“thu
mua
chè
bẩn
làm
bằng
chứng”
mà
thương
hiệu
về
sản
phẩm
chè
Việt
Nam
nói
riêng
và
nông
sản
Việt
Nam
nói
chung
bị
ảnh
hưởng
nghiêm
trọng.
Kiểu
tấn
công
này
đối
với
ngành
chè
có
thể
là
mới
nhưng
đã
diễn
ra
đối
với
nhiều
ngành
khác.
Kiểu
tấn
công
thứ
hai
đó
là
sản
xuất
nông
sản
ở
quốc
gia
khác
nhưng
lại
mang
thương
hiệu
Việt
Nam
hay
nguồn
gốc
xuất
xứ
từ
Việt
Nam
mà
báo
chí
hay
gọi
là
“đội
lốt
hàng
Việt”.
Kiểu
tấn
công
này
mạnh
mẽ
đối
với
các
sản
phẩm
được
sản
xuất
công
nghiệp
và
cũng
đang
tấn
công
vào
nông
sản
của
Việt
Nam.
Điển
hình
như
các
vụ
thạch
rau
câu,
nhân
của
bánh
trung
thu
truyền
thống,
rau,
củ,
quả
được
mang
nhãn
hiệu
Việt
Nam,
thông
số
sản
phẩm
bằng
tiếng
Việt,
nơi
sản
xuất
cũng
là
ở
Việt
Nam
nhưng
thực
ra
lại
hoàn
toàn
là
nông
phẩm
của
một
nước
láng
giềng.
Điều
đáng
nói
là
những
nông
phẩm
này
lại
là
những
thứ
gây
hại
cho
sức
khoẻ
con
người
và
hoàn
toàn
bị
cấm
ở
chính
quốc
gia
đó.
Hậu
quả
là
người
tiêu
dùng
lại
mất
niềm
tin
vào
thương
hiệu
nông
sản
Việt
Nam.
Kiểu
tấn
công
thứ
ba
là
tấn
công
vào
phương
thức
sản
xuất
nông
sản
của
Việt
Nam.
Thương
nhân
nước
ngoài
đã
hướng
dẫn
cho
nông
dân
cách
tạo
ra
“nông
sản”
không
cần
nuôi,
trồng
theo
lối
phát
triển
tự
nhiên.
Rau
bí
chỉ
cần
giâm
cành
và
phun
thuốc
sau
hai
ngày
thu
hoạch,
rau
muống
chỉ
cần
phun
thuốc
một
ngày
là
có
thể
hái
đem
bán,
heo
siêu
tăng
trọng
nhờ
hormon...Người
nông
dân
khi
đã
được
“nhàn”
mà
lãi
cao
thì
sẽ
bám
theo
phương
thức
sản
xuất
mới
mà
không
quan
tâm
đến
hậu
quả
của
những
nông
sản
này
đối
với
người
tiêu
dùng
và
hậu
quả
đối
với
thương
hiệu
của
nông
sản
Việt
Nam.
Để
người
nông
dân
quay
lại
với
phương
thức
nuôi,
trồng
chắc
phải
là
một
thời
gian
dài
nhưng
lúc
này
thì
người
tiêu
dùng
đã
phải
tự
trồng
rau
để
ăn,
mua
nông
sản
tại
siêu
thị
do
nước
ngoài
quản
lý
hoặc
mua
nông
sản
nhập
khẩu
từ
trời
Tây.
Nhiều
ví
dụ
khác
cho
các
kiểu
tấn
công
khác
trực
tiếp
vào
thương
hiệu
nông
sản
Việt
Nam
và
gián
tiếp
vào
sức
khoẻ
của
người
Việt
Nam
mà
khuôn
khổ
một
bài
báo
không
thể
kể
hết
được.
Nhưng
điều
đáng
nói
nhất
là
chúng
ta
(bao
gồm:
cơ
quan
nhà
nước
có
thẩm
quyền,
hiệp
hội,
doanh
nghiệp,
báo
chí
và
nông
dân)
đã
chưa
có
những
biện
pháp
chống
đỡ
những
cuộc
tấn
công
này.
Rất
nhiều
phát
biểu
của
những
người
có
thẩm
quyền
đổ
lỗi
cho
những
hành
vi
làm
hoen
ố
thương
hiệu
nông
sản
Việt
Nam
là
do
người
nông
dân,
là
do
dân
trí.
Nhưng
cũng
cần
nhìn
nhận
rằng
nông
dân
lại
là
đối
tượng
được
hưởng
những
điều
kiện
nâng
cao
dân
trí
thấp
hơn
những
“người
phi
nông”.
Nông
dân
có
quyền
sản
xuất,
bán
sản
phẩm
sao
cho
có
lợi
nhuận
cao
nhất
theo
đúng
quy
định
pháp
luật
mà
họ
“được
biết”
để
cải
thiện
đời
sống
của
mình.
Những
đối
tượng
khác
(cơ
quan
nhà
nước
có
thẩm
quyền,
hiệp
hội,
doanh
nghiệp
và
báo
chí)
cần
phải
hỗ
trợ
họ,
cung
cấp
cho
họ
công
cụ,
phương
thức
để
họ
tự
vệ.
Cũng
cần
nhận
thức
rằng
khi
thương
hiệu
đã
bị
“hoen
ố”
thì
càng
“truyền
thông
tiếp
thị”,
sự
“hoen
ố”
càng
được
nhiều
người
biết.
Nếu
vậy,
đúng
là
“gậy
ông
lại
đập
lưng
ông”.
Chiến
lược
xây
dựng
nông
sản
Việt
Nam
nên
có
thêm
những
phương
án
bảo
vệ,
phòng
thủ
đối
với
các
cuộc
tấn
công.
Chiến
lược
cho
thương
hiệu
nông
sản
Việt
Nam
cần
phải
gắn
với
những
chiến
lược
phát
triển
khác
của
ngành
nông
nghiệp.
Nếu
không,
liệu
Việt
Nam
có
tiếp
tục
phải
trả
giá
đắt
cho
nhận
thức,
phương
thức
sản
xuất,
phát
triển
kinh
doanh
và
sức
khoẻ
con
người
và
để
cho
người
tấn
công
thu
được
những
mối
lợi
nhãn
tiền
và
sâu
xa.