Giao
dịch
khớp
lệnh
trên
sàn
hàng
hóa
mới
ở
bước
đầu
phát
triển,
song
thực
tế
hiện
nay
nảy
sinh
nhiều
nhu
cầu
khác
của
các
doanh
nghiệp,
đòi
hỏi
phải
có
những
dịch
vụ
phù
hợp.
Đa
dạng
hóa
kênh
giao
dịch
nhằm
đem
người
mua
và
người
bán
xích
lại
gần
nhau
hơn
là
đòi
hỏi
cần
sớm
được
các
sàn
hàng
hóa
đáp
ứng.
Một
doanh
nghiệp
đầu
tư
bất
động
sản
đang
thực
hiện
dự
án
xây
dựng
500
căn
hộ
chung
cư
cho
biết,
doanh
nghiệp
đã
bán
xong
nhà
cho
người
mua
và
cuối
năm
2012
sẽ
giao
nhà
cho
khách
hàng.
Doanh
nghiệp
đã
thu
tiền
đợt
1,
tiến
độ
đóng
tiền
của
nhà
đầu
tư
được
chia
làm
5
đợt,
giá
bán
nhà
cũng
được
xác
định
cố
định
trong
suốt
thời
gian
thu
tiền,
không
phụ
thuộc
diễn
biến
chỉ
số
giá
tiêu
dùng
(CPI)
hay
lãi
suất.
Như
vậy
là
đầu
ra
cho
doanh
nghiệp
khá
đảm
bảo.
Tuy
nhiên,
đầu
vào
của
sản
phẩm
lại
khá
bấp
bênh
do
giá
cả
nguyên
vật
liệu
biến
động
liên
tục,
có
nhiều
thời
điểm
giá
thép
biến
động
tới
4
-
5
triệu
đồng/tấn.
Để
đảm
bảo
cho
việc
sản
xuất
liên
tục,
theo
đúng
tiến
độ,
doanh
nghiệp
muốn
có
cam
kết
với
các
nhà
cung
cấp
nguyên
vật
liệu.
Trước
đây,
các
nhà
sản
xuất
thép
thường
yêu
cầu
doanh
nghiệp
phải
có
cam
kết
trả
trước
50%
tiền
hàng
mới
bán
sản
phẩm,
thời
gian
giao
hàng
do
hai
bên
thống
nhất
sau.
Ở
thời
điểm
thị
trường
khó
khăn
về
dòng
tiền
như
hiện
tại,
nhất
là
với
các
doanh
nghiệp
bất
động
sản,
doanh
nghiệp
muốn
tham
gia
sàn
hàng
hóa
theo
hướng
sau:
họ
mua
hàng
giao
sau,
ký
quỹ
10
-
15%
và
được
đảm
bảo
về
giá
cũng
như
khối
lượng
hợp
đồng
thép
để
đảm
bảo
cho
tiến
độ
công
trình.
Hiện
những
giao
dịch
kiểu
này
chưa
thực
hiện
được,
do
nhà
sản
xuất
thép
yêu
cầu
tỷ
lệ
ký
quỹ
cao
hơn
là
30
-
40%,
nếu
tỷ
lệ
10%
phải
có
ngân
hàng
do
họ
chỉ
định
bảo
lãnh.
Sàn
giao
dịch
hàng
hóa
cũng
chỉ
chấp
nhận
giao
dịch
trên
sàn
những
mặt
hàng
theo
phẩm
cấp
chất
lượng
được
ấn
định
từ
trước,
chứ
không
biến
động
theo
yêu
cầu
của
bên
mua.
Các
ngân
hàng
hỗ
trợ
thanh
toán
cũng
chỉ
giới
hạn
ở
MSB,
Techcombank,
BIDV.
Trên
thực
tế,
nhu
cầu
đối
với
các
giao
dịch
như
dạng
thức
kể
trên
tại
Việt
Nam
khá
lớn,
do
biến
động
nguyên
liệu
đầu
vào
khó
dự
đoán,
trong
nhiều
trường
hợp
có
thể
gây
thua
lỗ
nặng
nếu
doanh
nghiệp
không
dự
đoán
chính
xác.
Trong
khi
đó,
năng
lực
dự
báo
giá
cả
và
biến
động
giá
hàng
hóa
của
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
khá
hạn
chế.
Ông
Nguyễn
Anh
Tuấn,
Giám
đốc
điều
hành
Sàn
An
Việt
cho
hay,
công
ty
ông
đang
có
khách
hàng
muốn
giao
dịch
hợp
đồng
thép
với
giá
trị
80
tỷ
đồng,
phục
vụ
cho
dự
án
xây
lắp
của
doanh
nghiệp.
Với
khoản
tiền
15
tỷ
đồng,
công
ty
có
thể
đáp
ứng
được,
song
30
-
40
tỷ
đồng
là
vượt
quá
năng
lực
của
doanh
nghiệp.
Sàn
giao
dịch
hàng
hóa
OTC
nếu
có
sẽ
thu
hút
sự
chú
ý
của
nhiều
doanh
nghiệp.
Lâu
nay,
các
doanh
nghiệp
nông
sản
Việt
Nam
chủ
yếu
thực
hiện
các
giao
dịch
truyền
thống,
tức
là
mua
bán
giao
ngay
hoặc
thỏa
thuận
dựa
trên
các
mối
quan
hệ.
Mức
độ
giao
dịch
phổ
biến
và
có
liên
quan
tới
hàng
hóa
phái
sinh
vẫn
chỉ
dừng
lại
ở
các
hợp
đồng
giao
dịch
kỳ
hạn.
Điều
này
một
phần
xuất
phát
từ
thói
quen
của
doanh
nghiệp
trong
nước.
Mặt
khác,
do
doanh
nghiệp
bị
hạn
chế
về
vốn
nên
họ
phụ
thuộc
rất
lớn
vào
ngân
hàng
và
các
đối
tác
thu
mua,
chủ
yếu
là
các
đối
tượng
nước
ngoài.
Điều
này
làm
giảm
tính
liên
kết
của
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam.
Trong
giai
đoạn
2006
-
2007,
có
nhiều
doanh
nghiệp,
phần
lớn
là
các
doanh
nghiệp
cà
phê
Việt
Nam
tham
gia
giao
dịch
trên
các
sàn
quốc
tế
như
Liffe
và
Ice.
Do
mới
làm
quen,
thiếu
thông
tin
và
chưa
có
nhiều
kinh
nghiệm
giao
dịch
nên
nhiều
doanh
nghiệp
bị
lỗ
nặng.
Điều
này
khiến
các
doanh
nghiệp
cảm
thấy
rủi
ro
và
xem
thị
trường
hàng
hóa
phái
sinh
như
là
một
thị
trường
đầu
cơ.
Hiện
tại,
Việt
Nam
đã
có
nhiều
công
ty
mở
sàn
giao
dịch
hàng
hóa,
nhưng
thực
chất
thì
vẫn
chưa
có
một
tổ
chức
nào
ra
đời
và
hoạt
động
đúng
nghĩa
là
Sở
giao
dịch
hàng
hóa.
Để
thị
trường
vận
hành
tốt
và
phục
vụ
tốt
nhà
đầu
tư,
cần
có
đồng
bộ
những
yếu
tố
như
thị
trường,
hệ
thống
giao
dịch,
chuỗi
giá
trị
trong
thị
trường
hàng
hóa
phái
sinh
bao
gồm
các
ngân
hàng
thanh
toán,
các
công
ty
môi
giới,
tự
doanh,
các
doanh
nghiệp
sản
xuất,
hệ
thống
logistic…