Bắt
đầu
từ
tháng
9-2011,
Cục
Hải
quan
TP.HCM
sẽ
đưa
mặt
hàng
vàng
vào
danh
mục
quản
lý
rủi
ro
nhằm
ngăn
chặn và
hạn
chế
hiện
tượng
gian
lận
thương
mại
qua
giá.
Vàng
là
mặt
hàng
nhạy
cảm
đang
biến
động
lớn
trên
thị
trường
trong
nước.
Việc
đưa
mặt
hàng
này
vào
danh
mục
quản
lý
rủi
ro
sẽ
giúp
hải
quan
thống
nhất
được
dữ
liệu
phục
vụ
cho
các
hoạt
động
kiểm
tra,
xác
định
giá.
Các
đơn
vị
làm
thủ
tục
xuất
khẩu
vàng,
kim
loại
quý phải
thực
hiện
việc
khai
báo
giá
và
tự
chịu
trách
nhiệm
đối
với
thông
tin
khai
báo. Trên
cơ
sở
giá
này,
hải
quan
sẽ
tính
toán
về
xác
định
mức
giá
này
có
phù
hợp
với
thực
tế
hay
không
để
áp
thuế.
Cục
Hải
quan
TP
HCM
là
đơn
vị
đầu
tiên
đưa
ra
quy
chế
quản
lý
rủi
ro
đối
với
hoạt
động
xuất
khẩu
vàng.
Lý
do
là
giai
đoạn
tháng
6
và
tháng
7
là
giai
đoạn
lượng
vàng
xuất
khẩu
ở
địa
phương
này
tăng
đột
biến.
Vàng
và
trang
sức
xuất
đi
từ
TP
HCM
chiếm
trên
70%
lượng
xuất
khẩu
của
cả
nước.
Cũng
để
hạn
chế
nạn
chảy
máu
mặt
hàng
kim
loại
quý
này,
trước
đó
Bộ
Tài
chính
đã
quyết
định
giảm
tuổi
của
vàng
nữ
trang
từ
99,9%
xuống
80%
để
áp
thuế
10%.
Danh
mục
quản
lý
rủi
ro
về
giá
được
Tổng
cục
Hải
quan
ban
hành
và
sử
dụng
từ
năm
2008.
Giai
đoạn
đầu,
việc
quản
lý
giá
áp
dụng
đối
với
một
số
mặt
hàng
như
ôtô,
xe
máy,
rượu
ngoại
và
một
số
mặt
hàng
được
coi
là
xa
xỉ,
không
khuyến
khích
nhập
khẩu.
Sau
đó,
hải
quan
tiếp
tục
bổ
sung
thêm
một
số
nhóm
hàng
hóa
khác
như
điện
thoại
di
động,
đồ
điện
tử,
thực
phẩm,
sắt
thép…
Theo
Tổng
cục
Hải
quan,
chủ
trương
quản
lý
rủi
ro
về
giá
đối
với
mặt
hàng
vàng
xuất
và
nhập
khẩu
có
từ
năm
2010.
Cục
trưởng
Cục
hải
quan
các
địa
phương
được
quyền
áp
dụng
quy
định
này
căn
cứ
vào
tình
hình
thực
tế
của
địa
phương
mình.
Tuy
nhiên,
từ
đó
đến
nay,
chưa
có
đơn
vị
nào
xây
dựng
mức
giá
để
tính
thuế
đối
với
vàng,
kể
cả
xuất
khẩu
cũng
như
nhập
khẩu.
Ngoài
việc
áp
thuế,
Bộ
Tài
chính
cũng
yêu
cầu
các
đơn
vị
hải
quan
tăng
cường
việc
kiểm
soát
đối
với
vàng
xuất
khẩu.
Trong
đó
có
việc
áp
dụng
nghiệp
vụ
hải
quan
bằng
cách
giám
định
chất
lượng
của
vàng
trang
sức
với
các
doanh
nghiệp
có
lô
hàng
xuất
khẩu
lớn,
không
thường
xuyên.
Đồng
thời
kiểm
tra
hóa
đơn
chứng
từ
chứng
minh
nguồn
gốc,
xuất
xứ
liên
quan
đến
nguồn
hàng,
quy
định
cửa
khẩu
xuất
khẩu.