Ủy
ban
nhân
dân
cấp
xã
thực
hiện
việc
hỗ
trợ
ban
đầu
các
nhu
cầu
thiết
yếu
cho
nạn
nhân
trong
những
trường
hợp
cần
thiết
và
thông
báo
ngay
với
Phòng
Lao
động-Thương
binh
và
Xã
hội.
Sáu
bộ
luật
gồm
Luật
Sửa
đổi,
bổ
sung
một
số
điều
của
Bộ
luật
Tố
tụng
dân
sự;
Luật
Phòng,
chống
mua
bán
người;
Luật
Kiểm
toán
độc
lập;
Luật
Viên
chức;
Luật
Thuế
bảo
vệ
môi
trường
và
Luật
Thuế
sử
dụng
đất
phi
nông
nghiệp
sẽ
có
hiệu
lực
thi
hành
từ
ngày
1/1/2012.
Tạo
thuận
lợi
cho
doanh
nghiệp
tiếp
cận
dịch
vụ
kiểm
toán
Luật
Kiểm
toán
độc
lập
có
8
Chương
với
64
Điều,
được
thông
qua
ngày
29/3/2011
tại
kỳ
họp
thứ
9
Quốc
hội
khóa
XII.
Việc
ban
hành
Luật
Kiểm
toán
độc
lập
nhằm
nâng
cao
hiệu
lực
pháp
lý
và
hiệu
quả
quản
lý
Nhà
nước
đối
với
hoạt
động
kiểm
toán
độc
lập.
Tăng
cường,
quyền
nghĩa
vụ,
trách
nhiệm
của
doanh
nghiệp
kiểm
toán,
kiểm
toán
viên
hành
nghề
và
đơn
vị
được
kiểm
toán,
tạo
điều
kiện
cho
doanh
nghiệp
Việt
Nam
tiếp
cận
dịch
vụ
kiểm
toán,
đặc
biệt
là
đơn
vị
có
lợi
ích
công
chúng,
đảm
bảo
quyền
lợi
cho
nhà
đầu
tư,
Nhà
nước
và
tổ
chức
liên
quan.
Luật
Kiểm
toán
độc
lập
có
điểm
mới
đáng
chú
ý
là
Bộ
Tài
chính
với
tư
cách
cơ
quan
quản
lý
nhà
nước
sẽ
cấp,
điều
chỉnh,
thu
hồi
Giấy
chứng
nhận
đủ
điều
kiện
kinh
doanh
dịch
vụ
kiểm
toán,
đình
chỉ
kinh
doanh
dịch
vụ
kiểm
toán
cũng
như
thanh
tra,
kiểm
tra
giải
quyết
khiếu
nại
tố
cáo
và
xử
lý
vi
phạm
trong
lĩnh
vực
kiểm
toán
độc
lập.
Luật
cũng
quy
định,
tiêu
chuẩn
trở
thành
kiểm
toán
viên
là
phải
có
năng
lực
hành
vi
dân
sự
đầy
đủ,
đạo
đức
tốt,
có
bằng
tốt
nghiệp
đại
học
trở
lên
thuộc
chuyên
ngành
tài
chính,
ngân
hàng,
kế
toán,
kiểm
toán
và
phải
có
Chứng
chỉ
kiểm
toán
viên.
Kiểm
toán
viên
phải
có
thời
gian
thực
tế
làm
công
tác
kiểm
toán
36
tháng
trở
lên
và
tham
gia
đầy
đủ
chương
trình
cập
nhật
kiến
thức
mới
được
đăng
ký
hành
nghề.
Để
đảm
bảo
chất
lượng
kiểm
toán,
Luật
quy
định
doanh
nghiệp
kiểm
toán
phải
bố
trí
nhân
sự
có
trình
độ
chuyên
môn
phù
hợp.
Ngoài
ra,
để
bảo
đảm
thông
tin
cho
kiểm
toán,
luật
quy
định
nghĩa
vụ
của
đơn
vị
được
kiểm
toán
là
cung
cấp
đầy
đủ,
chính
xác,
trung
thực,
kịp
thời
thông
tin,
không
được
có
hành
vi
hạn
chế
phạm
vi
các
vấn
đề
cần
kiểm
toán.
Đổi
mới
và
nâng
cao
hiệu
quả
quản
lý
nhà
nước
về
viên
chức
Luật
viên
chức
kết
cấu
gồm
6
Chương,
62
Điều.
Điểm
mới
cơ
bản
của
Luật
viên
chức
so
với
Pháp
lệnh
cán
bộ,
công
chức
là
đã
làm
rõ
khái
niệm
viên
chức,
phân
biệt
viên
chức
với
cán
bộ
và
công
chức.
Sự
khác
biệt
cơ
bản
của
viên
chức
so
với
cán
bộ,
công
chức
chính
là
chế
độ
tuyển
dụng
gắn
với
vị
trí
việc
làm,
thông
qua
chế
độ
hợp
đồng
làm
việc
và
tiền
lương
được
hưởng
từ
quỹ
tiền
lương
của
đơn
vị
sự
nghiệp
công
lập.
Một
trong
những
nguyên
tắc
được
nhấn
mạnh
để
tiếp
tục
đổi
mới
cơ
chế
quản
lý
viên
chức
là
“việc
tuyển
dụng,
sử
dụng,
quản
lý,
đánh
giá
viên
chức
được
thực
hiện
trên
cơ
sở
tiêu
chuẩn
chức
danh
nghề
nghiệp,
vị
trí
việc
làm
và
căn
cứ
vào
hợp
đồng
làm
việc.”
Đây
là
nguyên
tắc
đặt
nền
móng
để
tiếp
tục
đổi
mới
cơ
chế
quản
lý
viên
chức
theo
chế
độ
việc
làm,
nhấn
mạnh
năng
lực,
tài
năng
bên
cạnh
phẩm
chất
và
trình
độ.
Luật
Viên
chức
quy
định
rõ
việc
chuyển
đổi
giữa
viên
chức
và
cán
bộ,
công
chức,
đó
là
các
trường
hợp
viên
chức
làm
việc
tại
đơn
vị
sự
nghiệp
công
lập
từ
đủ
5
năm
trở
lên
thì
được
xét
chuyển
thành
công
chức
không
qua
thi
tuyển;
viên
chức
được
tiếp
nhận,
bổ
nhiệm
vào
vị
trí
việc
làm
được
pháp
luật
quy
định
là
công
chức
thì
quyết
định
tiếp
nhận,
bổ
nhiệm
đồng
thời
là
quyết
định
tuyển
dụng;
cán
bộ,
công
chức
được
chuyển
sang
làm
viên
chức
khi
đáp
ứng
đủ
các
điều
kiện
theo
quy
định
của
Luật
viên
chức;
công
chức
trong
bộ
máy
lãnh
đạo,
quản
lý
của
đơn
vị
sự
nghiệp
công
lập
khi
hết
thời
hạn
bổ
nhiệm
mà
không
được
bổ
nhiệm
lại
những
vẫn
tiếp
tục
làm
việc
tại
đơn
vị
sự
nghiệp
công
lập
đó
thì
được
chuyển
sang
làm
viên
chức
và
được
bố
trí
công
việc
phù
hợp;
viên
chức
chuyển
sang
làm
cán
bộ,
công
chức
hoặc
ngược
lại
đều
được
bảo
đảm
các
quyền
lợi
về
chế
độ,
chính
sách.
Luật
Viên
chức
tạo
cơ
sở
pháp
lý
có
giá
trị
cao
nhằm
xây
dựng
và
quản
lý
đội
ngũ
viên
chức
có
đủ
phẩm
chất,
trình
độ
và
năng
lực
đáp
ứng
nhu
cầu
ngày
càng
cao
của
người
dân
và
cộng
đồng;
phát
huy
tính
năng
động,
sáng
tạo
và
tài
năng
của
viên
chức;
thúc
đẩy
nâng
cao
chất
lượng
phục
vụ
người
dân
và
cộng
đồng
của
các
đơn
vị
sự
nghiệp
công
lập;
đổi
mới
và
nâng
cao
hiệu
quả
quản
lý
nhà
nước
về
viên
chức,
thúc
đẩy
phát
triển
khu
vực
sự
nghiệp
công
lập;
xây
dựng
cơ
chế
quản
lý
viên
chức
theo
vị
trí
việc
làm;
xác
định
rõ
thẩm
quyền,
trách
nhiệm
của
người
đứng
đầu
đơn
vị
sự
nghiệp
công
lập
trong
quản
đội
ngũ
viên
chức...
Không
thu
phí
xăng
dầu
từ
ngày
1/1/2012
Với
4
chương,
13
điều,
Luật
Thuế
bảo
vệ
môi
trường
được
ban
hành
nhằm
đáp
ứng
yêu
cầu
phát
triển
kinh
tế
bền
vững,
khuyến
khích
phát
triển
kinh
tế
đi
liền
với
giảm
ô
nhiễm
môi
trường,
phù
hợp
với
tình
hình
kinh
tế
hiện
nay
và
những
năm
tới.
Luật
góp
phần
nâng
cao
ý
thức
bảo
vệ
môi
trường
của
toàn
xã
hội,
từ
đó
thay
đổi
nhận
thức,
hành
vi
của
tổ
chức,
cá
nhân
trong
sản
xuất
và
tiêu
dùng
nhằm
giảm
phát
thải
ô
nhiễm
tại
nguồn...
Phạm
vi
điều
chỉnh
của
Luật
quy
định
về
đối
tượng
chịu
thuế,
đối
tượng
không
chịu
thuế,
người
nộp
thuế,
căn
cứ
tính
thuế,
khai
thuế,
tính
thuế,
nộp
thuế
và
hoàn
thuế
bảo
vệ
môi
trường.
Đáng
chú
ý
là
Luật
quy
định
về
tám
nhóm
đối
tượng
sản
phẩm
gây
tác
động
xấu
đến
môi
trường
và
sức
khỏe
con
người
phải
chịu
thuế,
gồm
xăng
dầu,
than
đá,
dung
dịch
hydro-chloro-fluoro-carbon
(dung
dịch
HCFC),
túi
nilông
thuộc
diện
chịu
thuế,
thuốc
trừ
cỏ,
thuốc
bảo
quản
lâm
sản,
thuốc
khử
trùng
kho,
thuốc
trừ
mối
thuộc
loại
hạn
chế
sử
dụng.
Luật
cũng
ghi
rõ,
trường
hợp
xét
thấy
cần
thiết
phải
bổ
sung
đối
tượng
chịu
thuế
khác
cho
phù
hợp
với
từng
thời
kỳ
thì
Ủy
ban
Thường
vụ
Quốc
hội
xem
xét,
quy
định;
khi
luật
có
hiệu
lực
thi
hành
thì
không
thu
phí
xăng
dầu.
Luật
Thuế
sử
dụng
đất
phi
nông
nghiệp:
Tăng
cường
quản
lý
nhà
nước
đối
với
đất
đai
Luật
Thuế
sử
dụng
đất
phi
nông
nghiệp
được
ban
hành
nhằm
tăng
cường
quản
lý
nhà
nước
đối
với
đất
đai,
khuyến
khích
tổ
chức,
cá
nhân
sử
dụng
đất
tiết
kiệm,
hiệu
quả,
góp
phần
hạn
chế
đầu
cơ
về
đất
và
khuyến
khích
thị
trường
bất
động
sản
phát
triển
lành
mạnh.
Luật
khắc
phục
những
mặt
hạn
chế
của
chính
sách
thuế
nhà,
đất
hiện
hành,
nâng
cao
tính
pháp
lý
của
pháp
luật
về
thuế
đất
trên
cơ
sở
bổ
sung
mới
và
kế
thừa
các
quy
định
còn
phù
hợp...
Luật
gồm
4
chương
với
13
điều
quy
định
cụ
thể
đối
tượng
chịu
thuế
bao
gồm
đất
ở
tại
nông
thôn,
đất
ở
tại
đô
thị;
đất
sản
xuất,
kinh
doanh
phi
nông
nghiệp
và
đất
phi
nông
nghiệp
khác
sử
dụng
vào
mục
đích
kinh
doanh
cho
phù
hợp
với
Luật
Đất
đai
2003.
Luật
quy
định
tổ
chức,
hộ
gia
đình,
cá
nhân
có
quyền
sử
dụng
đất
thuộc
đối
tượng
chịu
thuế
là
người
nộp
thuế.
Trường
hợp
tổ
chức,
hộ
gia
đình,
cá
nhân
chưa
được
cấp
Giấy
chứng
nhận
quyền
sử
dụng
đất,
quyền
sở
hữu
nhà
ở
và
tài
sản
khác
gắn
liền
với
đất
thì
người
đang
sử
dụng
đất
là
người
nộp
thuế..
Thay
đổi
thời
hiệu
khởi
kiện
vụ
án
dân
sự
Luật
sửa
đổi,
bổ
sung
một
số
điều
của
Bộ
luật
Tố
tụng
dân
sự
được
Quốc
hội
thông
qua
ngày
29/3/2011.
Một
trong
những
sửa
đổi,
bổ
sung
quan
trọng
lần
này
là
việc
thay
đổi
thời
hiệu
khởi
kiện
vụ
án
dân
sự.
Cụ
thể,
trường
hợp
pháp
luật
không
có
quy
định
về
thời
hiệu
khởi
kiện
vụ
án
dân
sự
thì
không
áp
dụng
thời
hiệu
khởi
kiện
đối
với
những
tranh
chấp
về
quyền
sở
hữu
tài
sản;
tranh
chấp
về
đòi
lại
tài
sản
do
người
khác
quản
lý;
chiếm
hữu;
tranh
chấp
về
quyền
sử
dụng
đất
theo
quy
định
của
pháp
luật
về
đất
đai.
Các
tranh
chấp
không
thuộc
các
trường
hợp
nêu
trên
thì
thời
hiệu
khỏi
kiện
vụ
án
dân
sự
là
vẫn
là
hai
năm,
kể
từ
ngày
cá
nhân,
cơ
quan,
tổ
chức
biết
được
quyền
và
lợi
ích
hợp
pháp
của
mình
bị
xâm
phạm
như
quy
định
trước
đây.
Luật
cũng
sửa
đổi
một
số
quy
định
theo
hướng
mở
rộng
quyền
giải
quyết
của
tòa
án
trong
các
vụ
việc,
vụ
án
về
dân
sự.
Theo
đó,
yêu
cầu
tuyên
bố
văn
bản
công
chứng
vô
hiệu
và
yêu
cầu
xác
định
quyền
sở
hữu,
quyền
sử
dụng
tài
sản;
phân
chia
tài
sản
chung
để
thi
hành
án
theo
quy
định
của
pháp
luật
về
thi
hành
án
dân
sự
thuộc
thẩm
quyền
giải
quyết
của
tòa
án.
Các
tranh
chấp
về
dân
sự
thuộc
thẩm
quyền
giải
quyết
của
tòa
án
được
bổ
sung
hai
loại
là
tranh
chấp
liên
quan
đến
yêu
cầu
tuyên
bố
văn
bản
công
chứng
vô
hiệu
và
tranh
chấp
liên
quan
đến
tài
sản
bị
cưỡng
chế
để
thi
hành
án
theo
quy
định
của
pháp
luật
về
thi
hành
án
dân
sự.
Luật
sửa
đổi,
bổ
sung
cũng
ghi
nhận
việc
các
bên
có
quyền
tự
thỏa
thuận
về
việc
xác
định
giá
tài
sản,
tổ
chức
thẩm
định
giá
tài
sản
nhằm
đảm
bảo
nguyên
tắc
tự
thỏa
thuận
trong
giao
dịch
dân
sự.
Tòa
án
chỉ
ra
quyết
định
định
giá
tài
sản
đang
tranh
chấp
sau
khi
các
bên
không
tự
thỏa
thuận
được
tổ
chức
định
giá
tài
sản
hoặc
các
bên
đã
thỏa
thuận
với
nhau
hoặc
với
tổ
chức
thẩm
định
giá
theo
mức
giá
thấp
nhằm
trốn
tránh
nghĩa
vụ
với
Nhà
nước.
Luật
sửa
đổi,
bổ
sung
lần
này
quy
định
thêm
thủ
tục
mới
là
“Thủ
tục
đặc
biệt
xem
xét
lại
quyết
định
của
Hội
đồng
Thẩm
phán
Tòa
án
nhân
dân
tối
cao.”
Nâng
cao
hiệu
quả
công
tác
phòng,
chống
mua
bán
người
Với
8
chương
và
58
điều,
Luật
Phòng,
chống
mua
bán
người
quy
định
rõ
những
hành
vi
bị
nghiêm
cấm,
bao
gồm
hành
vi
mua
bán
người
theo
quy
định
của
Bộ
luật
hình
sự
và
các
hành
vi
trực
tiếp
liên
quan
đến
việc
mua
bán
người
mà
Công
ước
về
chống
tội
phạm
có
tổ
chức
xuyên
quốc
gia
liệt
vào
danh
sách
các
hành
vi
buôn
bán
người
để
điều
chỉnh
một
cách
có
đầy
đủ,
toàn
diện
các
hành
vi
vi
phạm
trong
lĩnh
vực
phòng,
chống
mua
bán
người.
Luật
quy
định
rõ
các
chính
sách
của
Nhà
nước
trong
phòng,
chống
mua
bán
người,
đáng
chú
ý
là
chính
sách
kết
hợp
phòng,
chống
mua
bán
người
với
việc
thực
hiện
chương
trình
phòng,
chống
tội
phạm,
tệ
nạn
xã
hội
và
các
chương
trình
khác
về
phát
triển
kinh
tế-xã
hội.
Luật
xác
định
Phòng
Lao
động-Thương
binh
và
Xã
hội
là
đầu
mối
chính
tiếp
nhận
và
hỗ
trợ
cho
nạn
nhân.
Tuy
nhiên,
để
tạo
thuận
lợi
cho
nạn
nhân,
luật
cũng
quy
định
trước
khi
đến
với
Phòng
Lao
động-Thương
binh
và
Xã
hội,
nạn
nhân
có
thể
được
một
số
cơ
quan
khác
tiếp
nhận,
hỗ
trợ
ban
đầu
trong
trường
hợp
cần
thiết
như
Ủy
ban
nhân
dân
cấp
xã,
cơ
quan
giải
cứu,
cơ
quan,
tổ
chức
khác.
Ủy
ban
nhân
dân
cấp
xã
thực
hiện
việc
hỗ
trợ
ban
đầu
các
nhu
cầu
thiết
yếu
cho
nạn
nhân
trong
những
trường
hợp
cần
thiết
và
thông
báo
ngay
với
Phòng
Lao
động-Thương
binh
và
Xã
hội.
Trong
thời
hạn
chậm
nhất
là
ba
ngày,
kể
từ
khi
nhận
được
thông
báo
của
Ủy
ban
nhân
dân
cấp
xã,
Phòng
Lao
động-Thương
binh
và
Xã
hội
thực
hiện
việc
tiếp
nhận,
hỗ
trợ
nạn
nhân
và
phối
hợp
với
cơ
quan
công
an
cùng
cấp
xác
định
thông
tin
ban
đầu
về
nạn
nhân
trong
trường
hợp
nạn
nhân
chưa
có
giấy
tờ,
tài
liệu
chứng
nhận
nạn
nhân.
Luật
phòng,
chống
mua
bán
người
đi
vào
cuộc
sống
góp
phần
nâng
cao
hiệu
quả
công
tác
phòng,
chống
mua
bán
người,
hỗ
trợ
nạn
nhân
hòa
nhập
cộng
đồng,
tạo
thuận
lợi
cho
hoạt
động
hợp
tác
quốc
tế
về
phòng,
chống
mua
bán
người.