Các
tư
liệu
lịch
sử
không
thốngnhất
Trong
các
trao
đổi
thời
gian
gần
đây,
Trung
Quốc
đã
dẫn
chiếu
đến
một
số
tư
liệu
như
là
bằng
chứng
lịch
sử
nhằm
chứng
minh
cho
cái
gọi
là
“chủ
quyền”
của
Trung
Quốc
đối
với
quần
đảo
Hoàng
Sa
của
Việt
Nam.
Tuy nhiên, các “tư liệu” này của Trung Quốc không có nguồn gốc rõ ràng, không chính xác và được Trung Quốc diễn giải một cách tùy tiện. Các tài liệu mà Trung Quốc dẫn chiếu tới không chứng tỏ rằng Trung Quốc đã thiết lập chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa khi quần đảo còn là lãnh thổ vô chủ. Ngược lại, các ghi chép lịch sử cho thấy Trung Quốc hiểu rằng chủ quyền của họ chưa bao giờ bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa.
Ví
dụ
như
vào
thập
kỷ
cuối
cùng
của
thế
kỷ
19
khi
hai
tàu
Bellona
vàUmeji
Maru
bị
đắm
ở
Hoàng
Sa
và
bị
ngư
dân
Trung
Quốc
cướp
tài
sản,
nhà
cầm
quyền
Trung
Quốc
tại
Quảng
Đông
đã
lập
luận
rằng
quần
đảo
Hoàng
Sa
là
lãnh
thổ
bị
bỏ
rơi,
không
thuộc
về
Trung
Quốc.
Về
hành
chính,
các
đảo
này
không
thuộc
bất
kỳ
châu
nào
của
Hải
Nam,
Trung
Quốc
và
không
có
cơ
quan
nào
của
Trung
Quốc
có
trách
nhiệm
quản
lý
quần
đảo
này.
Vì
những
lý
do
đó,
phía
Trung
Quốc
đã
tuyên
bố
không
chịu
trách
nhiệm
về
vụ
ngư
dân
cướp
tài
sản.
Trong
khi
đó,
Việt
Nam
đã
cung
cấp
công
khai
các
tài
liệu
lịch
sử
xác
thực
cho
thấy
Việt
Nam
đã
thiết
lập
chủ
quyền
đối
với
quần
đảo
Hoàng
Sa
từ
khi
quần
đảo
là
lãnh
thổ
vô
chủ.
Ít
nhất
từ
thế
kỷ
17,
các
triều
đại
nhà
Nguyễn
của
Việt
Nam
đã
tổ
chức
các
hoạt
động
khai
thác
sản
vật
trên
các
đảo
thuộc
quần
đảo
Hoàng
Sa,
tổ
chức
đo
đạc
hải
trình
và
bảo
đảm
an
toàn
cho
các
tàu
thuyền
của
quốc
gia
khác
qua
lại
tại
khu
vực
quần
đảo
Hoàng
Sa.
Các
hoạt
động
này
đều
đã
được
ghi
nhận
trong
các
văn
bản
chính
thức
do
các
triều
đình
Việt
Nam
ban
hành
là
các
châu
bản
hiện
đang
được
lưu
giữ
tại
Việt
Nam.
Sau
khi
Pháp
và
Việt
Nam
ký
Hiệp
định
bảo
hộ
ngày
15/3/1874
và
ngày
6/6/1884,
Pháp
đã
thay
mặt
Việt
Nam
tiếp
tục
thực
thi
chủ
quyền
với
quần
đảo
Hoàng
Sa
và
tuyên
bố
phản
đối
các
hành
động
xâm
phạm
của
Trung
Quốc.
Pháp
đã
tiến
hành
nhiều
hoạt
động
thực
thi
chủ
quyền
đối
với
quần
đảo
Hoàng
Sa
như
xây
dựng
và
vận
hành
đèn
biển
và
trạm
khí
tượng,
thiết
lập
các
đại
lý
hành
chính
thuộc
tỉnh
Thừa
Thiên
(An
Nam),
cấp
giấy
khai
sinh
cho
công
dân
Việt
Nam
sinh
ra
tại
quần
đảo
này.
Việc
Đô
đốc
Quảng
Đông
(Trung
Quốc)
Lý
Chuẩn
năm
1909
tiến
hành
hành
động
thám
hiểm
và
thăm
dò
Hoàng
Sa
là
hành
động
vi
phạm
chủ
quyền
của
Việt
Nam
đối
với
Hoàng
Sa
mà
Việt
Nam
đã
thiết
lập
vững
chắc
và
được
chính
quyền
bảo
hộ
Pháp
thay
mặt
Việt
Nam
tiếp
tục
thực
thi
hữu
hiệu.
Pháp
đã
thay
mặt
Việt
Nam
phản
đối
các
hành
động
xâm
phạm
của
Trung
Quốc
đối
với
quần
đảo
Hoàng
Sa
và
nêu
rõ
chủ
quyền
của
Hoàng
Sa
đã
được
xác
lập
bởi
Việt
Nam.
Trước
yêu
sách
của
Trung
Quốc
đối
với
Hoàng
Sa,
Pháp
đã
từng
đề
nghị
Trung
Quốc
giải
quyết
vấn
đề
bằng
Trọng
tài
quốc
tế
(Công
hàm
của
Pháp
gửi
Trung
Quốc
ngày
18/2/1937),
nhưng
Trung
Quốc
đã
từ
chối.
Năm
1946,
chính
quyền
Trung
Hoa
Dân
quốc
của
Tưởng
Giới
Thạch
lợi
dụng
bối
cảnh
Chiến
tranh
Thế
giới
thứ
II
kết
thúc
đã
xâm
nhập
trái
phép
đảo
Phú
Lâm
thuộc
quần
đảo
Hoàng
Sa.
Năm
1947,
Pháp
đã
ra
tuyên
bố
phản
đối
sự
xâm
nhập
này,
yêu
cầu
hai
bên
tiến
hành
đàm
phán
và
giải
quyết
tại
cơ
quan
tài
phán
quốc
tế
nhưng
chính
quyền
Trung
Hoa
Dân
quốc
lại
một
lần
nữa
từ
chối.
Chính
quyền
Tưởng
Giới
Thạch
sau
đó
đã
rút
khỏi
đảo
Phú
Lâm.
Các
hội
nghị
quốc
tế
không
giao
quần
đảo
Hoàng
Sa
cho
Trung
Quốc
Trước
và
sau
khi
Chiến
tranh
Thế
giới
thứ
II
kết
thúc,
vấn
đề
chủ
quyền
đối
với
quần
đảo
Hoàng
Sa
cũng
như
Trường
Sa
đã
nhiều
lần
được
đưa
ra
các
hội
nghị
quốc
tế
xem
xét.
Từ
ngày
22-26/11/1943,
Hội
nghị
Cairo
với
sự
tham
gia
của
Tổng
thống
Hoa
Kỳ
Franklin
D.
Roosevelt,
Thủ
tướng
Anh
Winston
Churchill
và
Tổng
thống
Trung
Hoa
Dân
quốc
Tưởng
Giới
Thạch
đã
ra
Tuyên
bố
Cairo
(Cairo
Communiqué),
đưa
ra
mục
tiêu
loại
bỏ
Nhật
Bản
ra
khỏi
tất
cả
các
quần
đảo
ở
Thái
Bình
Dương
mà
Nhật
Bản
đã
chiếm
đóng
từ
Chiến
tranh
Thế
giới
thứ
I
năm
1914
và
tất
cả
các
lãnh
thổ
Nhật
Bản
đã
chiếm
của
Trung
Quốc
như
Mãn
Châu,
Đài
Loan
và
Bành
Hồ
sẽ
được
trả
lại
cho
Trung
Hoa
Dân
quốc.
Tưởng
Giới
Thạch,
đại
diện
cho
Trung
Quốc
có
mặt
tại
Hội
nghị
không
hề
đề
cập
đến
hai
quần
đảo
Hoàng
Sa
và
Trường
Sa.
Hội
nghị
Potsdam
diễn
ra
từ
ngày
17/7-2/8/1945
với
sự
tham
gia
của
lãnh
đạo
ba
nước
Hoa
Kỳ,
Anh
và
Trung
Quốc
đã
ra
Tuyên
ngôn
Potsdam
tái
khẳng
định
những
nội
dung
của
Tuyên
bố
Cairo.
Đại
diện
của
Trung
Quốc,
Tưởng
Giới
Thạch
có
mặt
tại
Hội
nghị
cũng
không
hề
nhắc
đến
hai
quần
đảo
Hoàng
Sa
và
Trường
Sa.
Hội
nghị
hòa
bình
San
Francisco
từ
ngày
4-8/9/1951
có
51
nước
tham
dự;
Việt
Nam
tham
gia
Hội
nghị
với
tư
cách
là
thành
viên
của
Liên
hiệp
Pháp.
Thủ
tướng
Quốc
gia
Việt
Nam
Trần
Văn
Hữu
đã
tham
dự
Hội
nghị
trên
cương
vị
Trưởng
phái
đoàn
Việt
Nam.
Hội
nghị
San
Francisco
đã
giải
quyết
vấn
đề
quy
thuộc
một
số
vùng
lãnh
thổ
ở
châu
Á-Thái
Bình
Dương.
Tại
Hội
nghị
này,
Trưởng
đoàn
Liên
Xô
Andrei
A.
Gromyko
đã
thay
mặt
Trung
Quốc
đưa
ra
đề
nghị
gồm
13
khoản,
trong
đó
có
khoản
liên
quan
đến
việc
Nhật
Bản
công
nhận
chủ
quyền
của
nước
Cộng
hòa
Nhân
dân
Trung
Hoa
đối
với
một
số
đảo
ở
Biển
Đông,
kể
cả
quần
đảo
Hoàng
Sa.
Với
46
phiếu
chống,
3
phiếu
ủng
hộ
và
2
phiếu
trắng,
Hội
nghị
đã
bác
bỏ
đề
nghị
này
của
Phái
đoàn
Liên
Xô.
Ngay
sau
đó,
ngày
7/9/1951,
phát
biểu
tại
Hội
nghị,
Trưởng
phái
đoàn
quốc
gia
Việt
Nam
Trần
Văn
Hữu
đã
tái
khẳng
định
chủ
quyền
lâu
đời
của
Việt
Nam
đối
với
hai
quần
đảo
Hoàng
Sa
và
Trường
Sa..Cả
51
quốc
gia
đều
không
phản
đối
Tuyên
bố
xác
nhận
chủ
quyền
đó
của
Phái
đoàn
Việt
Nam.
Hội nghị Geneva năm 1954 về việc khôi phục hòa bình ở Đông Dương khẳng định các bên tham gia tôn trọng độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang do các lực lượng của Pháp và Quốc gia Việt Nam quản lý. Trung Quốc là một trong những nước tham gia Hội nghị quốc tế về Đông Dương tại Geneva 1954 biết rất rõ điều này và Trung Quốc phải tôn trọng các văn kiện quốc tế của Hội nghị đó.
Điều
1
Hiệp
định
Paris
năm
1973
nói
rõ
tất
cả
các
nước
tôn
trọng
độc
lập
và
toàn
vẹn
lãnh
thổ
của
Việt
Nam.
Lúc
này
hai
quần
đảo
Hoàng
Sa,
Trường
Sa
đang
do
Việt
Nam
Cộng
hòa
quản
lý,
và
là
một
bộ
phận
lãnh
thổ
không
thể
tách
rời
của
Việt
Nam.
Tháng
1/1974,
Trung
Quốc
sử
dụng
vũ
lực
chiếm
đóng
toàn
bộ
quần
đảo
Hoàng
Sa
của
Việt
Nam.
Ngay
lúc
đó,
Chính
phủ
Việt
Nam
Cộng
hòa
và
Chính
phủ
Cách
mạng
lâm
thời
Cộng
hòa
miền
Nam
Việt
Nam
đều
đã
ra
tuyên
bố
bày
tỏ
quan
điểm
và
phản
đối
hành
động
của
Trung
Quốc.
Chính
phủ
Việt
Nam
Cộng
hòa
đã
yêu
cầu
Hội
đồng
Bảo
an
Liên
Hợp
Quốc
họp
khẩn
cấp
về
hành
động
sử
dụng
vũ
lực
của
Trung
Quốc.
Theo
luật
pháp
quốc
tế
về
thụ
đắc
lãnh
thổ,
việc
sử
dụng
vũ
lực
chiếm
đóng
một
vùng
lãnh
thổ
thuộc
quốc
gia
khác
không
thể
tạo
ra
chủ
quyền.
Trung Quốc vi phạm nguyên tắc
Trung
Quốc
đã
hai
lần
xâm
chiếm
trái
phép
Hoàng
Sa.
Năm
1956,
lợi
dụng
lúc
Pháp
rút
khỏi
Việt
Nam,
Trung
Quốc
đã
xâm
chiếm
nhóm
đảo
phía
Đông
của
Hoàng
Sa.
Đây
là
lần
đầu
tiên
Trung
Quốc
thực
sự
chiếm
đóng
một
phần
quần
đảo
Hoàng
Sa.
Chính
quyền
Việt
Nam
Cộng
hòa
đã
phản
đối
mạnh
mẽ
sự
chiếm
đóng
này.
Năm
1959,
một
nhóm
binh
lính
Trung
Quốc
giả
dạng
ngư
dân
âm
mưu
đổ
bộ
lên
nhóm
đảo
phía
Tây
quần
đảo
Hoàng
Sa
đã
bị
lực
lượng
của
chính
quyền
Việt
Nam
Cộng
hòa
đập
tan.
82
“ngư
dân”
Trung
Quốc
đã
bị
bắt.
Cả
hai
hành
động
xâm
chiếm
này
diễn
ra
sau
khi
vấn
đề
chủ
quyền
đối
với
hai
quần
đảo
Hoàng
Sa
và
Trường
Sa
đã
được
khẳng
định
tại
các
hội
nghị
quốc
tế
như
trên
mà
không
gặp
phải
bất
kỳ
sự
phản
đối
nào.
Năm
1974,
lợi
dụng
tình
hình
chiến
tranh
ở
Việt
Nam,
Trung
Quốc
đã
tấn
công
và
chiếm
quyền
kiểm
soát
Hoàng
Sa
từ
chính
quyền
Việt
Nam
Cộng
hòa.
Đây
là
lần
đầu
tiên
Trung
Quốc
chiếm
đóng
bằng
vũ
lực
toàn
bộ
quần
đảo
Hoàng
Sa.
Từ
góc
độ
luật
pháp
quốc
tế,
việc
chiếm
đóng
bằng
vũ
lực
lãnh
thổ
của
một
quốc
gia
có
chủ
quyền
là
hành
vi
bất
hợp
pháp
và
không
thể
là
cơ
sở
cho
đòi
hỏi
chủ
quyền.
Vì
vậy,
chủ
quyền
của
Việt
Nam
đối
với
quần
đảo
Hoàng
Sa
vẫn
được
duy
trì
và
không
bị
thay
thế
bởi
sự
chiếm
đóng
bằng
vũ
lực
của
Trung
Quốc.
Bị
vong
lục
ngày
12/5/1988
của
Trung
Quốc
-
một
văn
bản
chính
thức
của
Bộ
Ngoại
giao
Trung
Quốc
-
cũng
khẳng
định
rõ
một
nguyên
tắc
cơ
bản
của
luật
pháp
quốc
tế
là
“xâm
lược
không
thể
sinh
ra
chủ
quyền”
đối
với
một
vùng
lãnh
thổ.
Không
có
quốc
gia
nào
trên
thế
giới
công
nhận
chủ
quyền
của
Trung
Quốc
đối
với
quần
đảo
Hoàng
Sa.
Việt
Nam
chưa
bao
giờ
công
nhận
chủ
quyền
của
Trung
Quốc
Trung
Quốc
đã
cố
tình
xuyên
tạc
lịch
sử
và
diễn
giải
sai
lịch
sử
khi
viện
dẫn
Công
thư
của
cố
Thủ
tướng
Phạm
Văn
Đồng
năm
1958
và
một
số
tài
liệu,
ấn
phẩm
được
xuất
bản
ở
Việt
Nam
trước
năm
1975
để
củng
cố
yêu
sách
của
Trung
Quốc
đối
với
quần
đảo
Hoàng
Sa.
Công
thư
của
cố
Thủ
tướng
Phạm
Văn
Đồng
hoàn
toàn
không
nhắc
gì
đến
chủ
quyền
đối
với
quần
đảo
Hoàng
Sa
hay
Trường
Sa.
Tuyên
bố
đó
liên
quan
đến
các
vùng
biển,
không
giải
quyết
các
vấn
đề
lãnh
thổ.
Trên
thực
tế,
những
kết
luận
mà
Trung
Quốc
đưa
ra
hiện
nay
đang
mâu
thuẫn
với
chính
các
phát
biểu
của
Trung
Quốc,
trong
đó
có
phát
biểu
của
chính
nhà
lãnh
đạo
Trung
Quốc
Đặng
Tiểu
Bình.
Tháng
9/1975,
17
năm
sau
Công
thư
nói
trên
của
cố
Thủ
tướng
Phạm
Văn
Đồng,
nhà
lãnh
đạo
Trung
Quốc
Đặng
Tiểu
Bình
đã
nói
với
nhà
lãnh
đạo
Việt
Nam
Lê
Duẩn
tại
Bắc
Kinh
rằng
“Trung
Quốc
có
đầy
đủ
tài
liệu
chứng
minh
quần
đảo
Tây
Sa
(Hoàng
Sa)
và
Nam
Sa
(Trường
Sa)
từ
xưa
đến
nay
thuộc
lãnh
thổ
Trung
Quốc.
Nhưng
với
nguyên
tắc
thông
qua
Hiệp
thương
hữu
nghị
để
giải
quyết
bất
đồng,
sau
này
hai
nước
sẽ
bàn
bạc
giải
quyết”.
Bị
vong
lục
của
Bộ
Ngoại
giao
Trung
Quốc
ngày
12/5/1988
đã
ghi
nhận
rõ
ràng
nội
dung
phát
biểu
này
của
Đặng
Tiểu
Bình,
thể
hiện
nhận
thức
của
Trung
Quốc
rằng
vấn
đề
chủ
quyền
không
được
dàn
xếp
có
lợi
cho
phía
Trung
Quốc
qua
các
phát
biểu
hay
thỏa
thuận
trước
đây.
Việt
Nam
yêu
cầu
Trung
Quốc
tôn
trọng
sự
thật
lịch
sử
đó
và
nghiêm
túc
đàm
phán
với
Việt
Nam
về
vấn
đề
quần
đảo
Hoàng
Sa.
>>> Hành động của Trung Quốc không làm thay đổi thực tế chủ quyền của Việt Nam
Theo Bộ Ngoại giao, Chinhphu.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Đang truy cập : 134
•Máy chủ tìm kiếm : 8
•Khách viếng thăm : 126
Hôm nay : 64883
Tháng hiện tại : 902049
Tổng lượt truy cập : 44269734