Cô
Huỳnh
Thị
Bé
ở
ấp
Bình
Phú
Quới,
xã
Bình
Thành,
huyện
Lấp
Vò,
Đồng
Tháp,
với
03
đời
theo
nghề
làm
đũa
tre.
Ngày
xưa
khi
me
tôi
về
với
ông
bà,
buồn
quá
cha
tôi
thường
ngồi
uống
rượu
một
mình
và
ngâm
nga
những
bài
hát
xưa
cũ.
Trong
nhiều
câu
hát
của
ông,
tôi
vẫn
nhớ
câu
này.
Đũa
trui
bếp
có
đôi/
Cái
ông
thổi
lửa
mồ
côi
một
mình…
Ông
lại
kể
lúc
yếu
không
đi
lại
đuộc
sau
ngày
đình
chiến
(Hiệp
định
Geneve
năm
1954),
ông
mua
tre
về
đóng
giường,
đan
cót
cho
mẹ
đi
bán.
Đoạn
gốc
tre,
ông
chẻ
vót
thành
những
đôi
đũa
trui,
đũa
bếp
hoặc
những
bó
đũa
ăn
cơm
nhỏ
hơn
để
mẹ
mang
ra
chợ…
Hình
ảnh
đôi
đũa
với
cha
tôi
sao
mà
thân
thương
và
buồn
vậy!
Sau
này,
từ
sách
vở
tôi
thấy
nhiều
nhà
nghiên
cứu
phương
Tây
nói
đũa
là
loại
hình
thuộc
văn
minh
Trung
Hoa,
ăn
minh
đũa
(civilisation
des
baguettes).
Nhưng
các
học
giả
viết
sử
Tàu
thì
cãi
lại:
người
Trung
Quốc
thời
Tần
Hán
không
dùng
đũa
khi
ăn,
mà
lấy
tay
bốc.
Đũa
thuộc
văn
minh
lúc
nước
Đông
Nam
Á
và
những
vùng
thổ
nhưỡng
phù
hợp
với
cây
tre.
Người
Tàu
chỉ
bắt
đầu
dùng
đũa
khi
thôn
tính
đất
Bách
Việt
(
đời
Tần
–
Hán).
Ở
Việt
Nam,
có
lẽ
đôi
đũa
xuất
hiện
sớm
nhất
là
trong
chuyện
cổ
tích
Trầu
Cau.
Để
biết
được
ai
là
anh,
ai
là
em
trong
câu
truyện,
người
ta
đã
để
hai
anh
em
sinh
đôi
Tân
và
Lang
ăn
cơm
cùng
mâm
nhưng
chỉ
có
một
đôi
đũa.
Người
em
chính
là
Tân
kính
trọng
đưa
đưa
cho
anh
mình.
Chuyện
của
thuở
Hùng
Vương
lập
quốc
mấy
ngàn
năm,
không
chỉ
là
chỉ
dấu
một
tung
tích
đôi
đũa
trong
lịch
sử
mà
còn
thể
hiện
nếp
văn
hóa
gia
đình
Việt
từ
khá
sớm…
Nhà
truyền
giáo
người
Ý
Cristophoro
Borri
đến
Việt
Nam
đầu
thế
kỷ
17
mô
tả
chuyện
ăn
của
người
Đàng
Trong:
“Họ
không
dùng
dao
hay
xiên
trong
mâm.
Họ
thực
ra
không
cần
vì
họ
đã
thái
thịt
ra
thành
miếng
nhỏ
và
thay
vì
xiên
thì
họ
dùng
đũa
nhỏ
rất
nhẵn
nhụi,
cầm
đũa
giữa
những
những
ngón
tay
và
gắp
rất
khéo
léo,
rất
sành
sỏi
nên
không
cần
gì
khác…”.
Chính
đôi
đũa
đã
lâu
dài
trong
lịch
sử
ấy,
mà
kho
tàng
văn
học
dân
gian
việt
Nam
có
khá
nhiều
nội
dung
liên
quan
đến
đôi
đũa
tre
thân
thuộc,
sâu
sắc
trong
văn
hóa
ứng
xử
và
đạo
đức
của
tiền
nhân.
Kêu
gọi
hợp
quần
để
tạo
nên
sức
mạnh
vì
không
ai
có
thể
bẻ
một
bó
đũa;
đừng
vội
Vơ
đũa
cả
nắm
là
trách
người
không
thấu
đáo.
Làm
ăn
đối
xử
với
nhau
thì
Cho
cái
đầu
có
đũa…
Đũa
là
hình
ảnh
của
hạnh
phúc
hay
bất
hòa
trong
quan
hệ
gia
đình.
Vợ
chồng
như
đũa
có
đôi,
vợ
dại
cũng
hại
như
đũa
vênh.
Nhưng
có
lẽ
câu
truyện
về
tục
“Đồng
tiền
chiếc
đũa
phân
ly”
sau
đây
khiến
ta
iên
tưởng
đến
cái
nhìn
nhân
văn
của
ông
cha:
Ngày
xưa,
nếu
một
trong
hai
vị
hôn
phối
vì
cớ
gì
mà
qua
đời,
người
còn
lại
không
thể
cứ
ở
góa
mãi
nên
ông
cha
ta
có
tục
bỏ
một
đồng
tiền
xu
hai
mặt
âm
dương
và
một
chiếc
đũa
(tiền
xu
và
đũa
thường
dùng
có
đôi)
vào
áo
quan
theo
người
xấu
số.
Tục
này
để
người
chết
không
còn
vấn
vương
đôi
lứa
và
người
sống
có
thể
lấy
vợ
hoặc
chồng
mới…
Ở
nước
ta
từ
xưa,
người
nhỏ
phải
so
đũa
cho
người
lớn
trong
mâm
cơm,
như
trong
sự
tích
Trầu
Cau,
để
tỏ
sự
lể
phép.
Một
nàh
nghiên
cứu
văn
háo
Nhật,
Giáo
sư
Richard
Bowring,
nói
rằng
đũa
xuất
hiện
trong
lịch
sử
xứ
Phù
Tang
chỉ
mới
từ
thế
kỷ
thứ
16.
Trong
lúc
đôi
đũa
người
Tàu
to
và
dài,
thì
với
người
Nhật
đội
dài
của
đôi
đũa
phải
tương
thích
với
vị
trí
của
mỗi
thành
viên
trong
gia
đình:
của
chồng
phải
dài
hơn
vợ,
anh
phải
dài
hơn
em,
cha
mẹ
dài
hơn
con
cái…
Lần
đầu
tiên
thăm
bạn
bè,
người
thân
trên
đất
Mỹ,
cô
bạn
cũ
điện
thoại
bảo
không
cần
mua
quà
cáp
gì
cả,
chỉ
mua
cho
cô
vài
bó
đũa
là
được
rồi!
Tôi
nge
lời
mua
đến
hai
chục
bó
đũa
thật
đẹp
bằng
che
già
chính
hiệu.
Té
ra,
từ
cô
bạn
đến
nhiều
người
thân
khác
ai
cũng
thích
thú
và
cám
ơn
rối
rít
khi
nhận
món
quà
từ
quê
đó.
Có
hôm,
chuyện
đôi
đũa
lại
trở
thành
câu
chuyện
xôm
tụ
ở
New
York
khi
anh
bạn
tôi
kể
chuyện
đũa
ở
Quảng
Nam
sau
chiến
tranh.
Đó
là
vùng
cát
ven
biển.
Sau
chiến
tranh
không
còn
lấy
một
cây
tre.
Làng
mạc
chỉ
thông
thống
cát
với
cát.
Người
dân
quay
về
làng
cũ
chợt
thấy
là
thiếu
gì
cũng
xoay
xở
được,
nhưng
thiếu
đũa
thì
hàng
chục
cây
số
mới
tìm
được
tre
vót
đũa.
Mấy
gia
đình
tản
cư
từ
Đà
Nẵng
về
nghe
nói
giữ
đôi
đũa
rất
kỹ
sau
mội
bữa
ăn
vì
sợ…
ai
đó
lấy
mất!
Một
nhà
văn
đi
thực
tế
ở
làng
này,
hỏi
một
chị
phụ
nữ
đang
lo
gì
nhất?
Chị
nói
tỉnh
queo:
“Lo
thiếu
đũa
anh
à!”.
Quả
nhiên
trong
một
đám
cưới,
anh
chủ
tịch
xã
do
quá
bực
mình
vì
thiếu
đũa
đã
la
lớn:
“Tới
đôi
đũa
cũng
không
có
mà
ăn,
ăn
bốc
mọi
rợ,
sống
không
ra
người!...”.
Từ
chuyện
ấy,
àm
cả
vùng
cát
mấy
chục
ngàn
ngàn
dân
sau
chiến
tranh
đã
trở
thành
một
vành
đai
xanh
với
phong
trào
trồng
cây
phủ
cát
và
trồng
nhiều
tre
dọc
sông
Trường
Giang
để…
không
còn
cảnh
thiếu
đũa!
Khi
nhắc
đến
câu
thơ
cảm
động
của
nhà
thơ
Thu
Bồn
ở
đầu
bài,
tôi
chợt
liên
tưởng
đến
bức
ảnh
chụp
một
bè
mẹ
người
làng
tôi
có
chín
người
con
chết
trong
chiến
tranh:
Ngày
hào
bình,
nhớ
con
đến
đứt
ruột,
bữa
ăn
nào
bà
cũng
dọn
sẵn
chín
cái
chén
và
gác
trên
đó
chín
đôi
đũa
để
nhớ
về
những
núm
ruột
bà
đã
mang
nẵng
đẻ
dau.
Tại
khu
tưởng
niệm
vụ
khủng
bố
hồi
năm
1995
ở
Oklahama
(Mỹ)
có
hàng
trăm
chiếc
ghế
lớn
nhỏ
đặt
thành
hàng
bên
phía
tay
phải
khu
di
tích,
người
ta
nói
là
mội
chiếc
ghế
ấy
tượng
trung
cho
một
thành
viên
gia
đình
là
nạn
nhân
đã
không
về
nữa
trong
bữa
ăn.
Nhưng
đối
với
bà
mẹ
Việt
Nam,
mỗi
đứa
con
là
một
đôi
đũa.
Đơn
sơ
vậy
mà
sao
lòng
ta
quặn
thắt!
Như
đã
kể,
ông
cụ
tôi
từng
là
thợ
tre.
Ông
cố,
ông
nội
và
nhiều
chú
bác
tôi
ở
nông
thôn
Quảng
Nam
và
đã
trở
thành
thợ
tre
khi
nhu
cầu
xây
dựng
và
dụng
cụ
sinh
hoạt
nở
rộ
ở
cửa
Hàn,
phố
Hội
đầu
thế
kỷ
20.
Cây
tre
làng
tôi
cũng
háo
thân
thành
những
đôi
đũa
trên
mâm
cơm
của
nhiều
gia
đình
thành
thị.
Cha
tôi
kể,
để
có
những
đôi
đũa
tốt,
phải
vót
từ
những
gốc
tre
già,
ngâm
lâu
cho
gỗ
tre
chắc
và
không
mối
mọt.
Ông
lại
kể:
đóng
giường,
làm
cột
nhà
bằng
te
thì
ông
bà
đã
dạy
Bộng
trong,
xong
ngoài,
nghĩa
là
ngoài
đẹp
thì
chỗ
nối
phải
khít.
Còn
vót
đũa
thì:
đời
cha
cho
chí
đời
con/
Muốn
vót
cho
tròn
hãy
chẻ
cho
vuông.
Vuông
tròn
cũng
là
hình
ảnh
của
trời
và
đất
trong
tư
duy
của
cha
ông
mình.
Muốn
vót
được
chiếc
đũa
tròn,
thì
tay
nghề
giỏi
mà
tâm
phải
tịnh!
“Con
người
ta
lạ
lắm!
Cái
gì
cũng
tre!
Tre
đi
theo
mình
đến
cuối
đời.
nào
là
cái
áo
quan,
cái
nuột
lạt
và
cả
đôi
đũa
cấm
lên
bát
cơm
cúng
khi
mình
đã
xuống
lỗ!”.
Lý
sự
như
vậy
nên
những
năm
ra
ở
thành
phố,
cụ
không
bao
giờ
dũng
đũa
nhuộm,
đũa
gỗ.
Mẹ
tôi
phải
lặn
lội
về
quê
cả
trong
lúc
đạn
bom
để
tìm
cho
được
vài
cái
ống
tre
già
ở
gốc
để
ông
vót
thành
những
đôi
đũa
cho
cả
gia
đình.
Ở
phố,
những
đứa
em
gái
lại
cứ
quen
chơi
trò
“đánh
nẻ”
bằng
những
bó
đũa
ấy.
Đũa
bẩn
hay
mất,
cha
tôi
lại
vui
vẻ
cậm
cụi
vót
những
đôi
khác.
Ông
bảo:
trong
những
trò
chơi,
thì
đánh
nẻ
là
của
người
Việt,
không
lai
của
người
Chàm
như
trò
u
mọi,
đập
nồi.Và
ông
lại
giải
thích
đôi
đũa
có
từ
thời
Hùng
Vương
dựng
nước.
Nghe
ông
kể
,
tôi
lại
nghiệm
ra
khi
đứa
bé
gái
tung
quả
bóng
lên
cao
rồi
bốc
từng
bó
đũa
lên
tay
trước
khi
chụp
quả
bóng
không
cho
rơi
xuống…
trong
trò
chơi
đánh
nẻ
ấy
lại
hiển
hiện
một
ý
nghĩa
nào
đó.
Từ
cô
độc,
đơn
lẻ
đến
đoàn
tụ
và
hoan
lạc
!
Trong
niềm
hoan
lạc
lứa
đôi
cũng
có
chiếc
đũa
Việt
dự
phần.
Và
ta
lại
nhớ
đến
tục
“đơm
lẻ,
đơm
chẵn
tức
vót
chiếc
đũa
tre
thành
những
chùm
bông
để
cầu
tự,
lại
nhớ
chuyện
các
cô
dâu
nghèo
mượn
lược
làm
trâm
để
phòng
bất
trắc
đêm
tân
hôn,
hay
chuyện
cấm
chiếc
đũa
chờ
trăng
lên
trong
giai
thoại
về
người
mẹ
giỏi
văn
chương
và
lý
số
Nhữ
thị
Thục:
chờ
trăng
lên,
soi
đứng
bóng
chiếc
đũa
mới
là
lúc
bà
cho
người
chồng
động
phòng,
vì
vậy
bà
mẹ
ấy
đã
sinh
ra
hai
ông
trạng
Nguyễn
Bỉnh
Khiêm
và
Phùng
Khắc
Khoan
tài
hoa
trong
sử
Việt!
Ôi,
đôi
đũa
Việt
bốn
ngàn
năm
thâm
thúy
một
triết
luận
Á
Đông!