11:05 EDT Thứ tư, 15/05/2024

Trang nhất » Tin Tức » Dòng chảy hàng Việt

Bốn ngàn năm đũa Việt!

Thứ hai - 23/02/2015 23:14

Đôi đũa tre gắn liền với văn minh lúa nước trong sử Việt. Thế mà ngày nay mỗi năm ta lại phải ngoại tệ đi mua hàng vạn tấn tre, đũa về dùng. Hình ảnh đũa Việt chỉ còn trong sách vở, chuyện nhân gian và những giai thoại…

 

Cô Huỳnh Thị Bé ở ấp Bình Phú Quới, xã Bình Thành, 
huyện Lấp Vò, Đồng Tháp, với 03 đời theo nghề làm đũa tre.
 
Ngày xưa khi me tôi về với ông bà, buồn quá cha tôi thường ngồi uống rượu một mình và ngâm nga những bài hát xưa cũ. Trong nhiều câu hát của ông, tôi vẫn nhớ câu này. Đũa trui bếp có đôi/ Cái ông thổi lửa mồ côi một mình… Ông lại kể lúc yếu không đi lại đuộc sau ngày đình chiến (Hiệp định Geneve năm 1954), ông mua tre về đóng giường, đan cót cho mẹ đi bán. Đoạn gốc tre, ông chẻ vót thành những đôi đũa trui, đũa bếp hoặc những bó đũa ăn cơm nhỏ hơn để mẹ mang ra chợ… Hình ảnh đôi đũa với cha tôi sao mà thân thương và buồn vậy!
 
Sau này, từ sách vở tôi thấy nhiều nhà nghiên cứu phương Tây nói đũa là loại hình thuộc văn minh Trung Hoa, ăn minh đũa (civilisation des baguettes). Nhưng các học giả viết sử Tàu thì cãi lại: người Trung Quốc thời Tần Hán không dùng đũa khi ăn, mà lấy tay bốc. Đũa thuộc văn minh lúc nước Đông Nam Á và những vùng thổ nhưỡng phù hợp với cây tre. Người Tàu chỉ bắt đầu dùng đũa khi thôn tính đất Bách Việt ( đời Tần – Hán).
 
Ở Việt Nam, có lẽ đôi đũa xuất hiện sớm nhất là trong chuyện cổ tích Trầu Cau. Để biết được ai là anh, ai là em trong câu truyện, người ta đã để hai anh em sinh đôi Tân và Lang ăn cơm cùng mâm nhưng chỉ có  một đôi đũa. Người em chính là Tân kính trọng đưa đưa cho anh mình. Chuyện của thuở Hùng Vương lập quốc mấy ngàn năm, không chỉ là chỉ dấu một tung tích đôi đũa trong lịch sử mà còn thể hiện nếp văn hóa gia đình Việt từ khá sớm…
 
Nhà truyền giáo người Ý Cristophoro Borri đến Việt Nam đầu thế kỷ 17 mô tả chuyện ăn của người Đàng Trong: “Họ không dùng dao hay xiên trong mâm. Họ thực ra không cần vì họ đã thái thịt ra thành miếng nhỏ và thay vì xiên thì họ dùng đũa nhỏ rất nhẵn nhụi, cầm đũa giữa những những ngón tay và gắp rất khéo léo, rất sành sỏi nên không cần gì khác…”.
 
Chính đôi đũa đã lâu dài trong lịch sử ấy, mà kho tàng văn học dân gian việt Nam có khá nhiều nội dung liên quan đến đôi đũa tre thân thuộc, sâu sắc trong văn hóa ứng xử và đạo đức của tiền nhân. Kêu gọi hợp quần để tạo nên sức mạnh vì không ai có thể bẻ một bó đũa; đừng vội Vơ đũa cả nắm là trách người không thấu đáo. Làm ăn đối xử với nhau thì Cho cái đầu có đũa…
 
Đũa là hình ảnh của hạnh phúc hay bất hòa trong quan hệ gia đình. Vợ chồng như đũa có đôi, vợ dại cũng hại như đũa vênh. Nhưng có lẽ câu truyện về tục “Đồng tiền chiếc đũa phân ly” sau đây khiến ta iên tưởng đến cái nhìn nhân văn của ông cha: Ngày xưa, nếu một trong hai vị hôn phối vì cớ gì mà qua đời, người còn lại không thể cứ ở góa mãi nên ông cha ta có tục bỏ một đồng tiền xu hai mặt âm dương và một chiếc đũa (tiền xu và đũa thường dùng có đôi) vào áo quan theo người xấu số. Tục này để người chết không còn vấn vương đôi lứa và người sống có thể lấy vợ hoặc chồng mới…
 
Ở nước ta từ xưa, người nhỏ phải so đũa cho người lớn trong mâm cơm, như trong sự tích Trầu Cau, để tỏ sự lể phép. Một nàh nghiên cứu văn háo Nhật, Giáo sư Richard Bowring, nói rằng đũa xuất hiện trong lịch sử xứ Phù Tang chỉ mới từ thế kỷ thứ 16. Trong lúc đôi đũa người Tàu to và dài, thì với người Nhật đội dài của đôi đũa phải tương thích với vị trí của mỗi thành viên trong gia đình: của chồng phải dài hơn vợ, anh phải dài hơn em, cha mẹ dài hơn con cái…
 
Lần đầu tiên thăm bạn bè, người thân trên đất Mỹ, cô bạn cũ điện thoại bảo không cần mua quà cáp gì cả, chỉ mua cho cô vài bó đũa là được rồi! Tôi nge lời mua đến hai chục bó đũa thật đẹp bằng che già chính hiệu. Té ra, từ cô bạn đến nhiều người thân khác ai cũng thích thú và cám ơn rối rít khi nhận món quà từ quê đó. Có hôm, chuyện đôi đũa lại trở thành câu chuyện xôm tụ ở New York khi anh bạn tôi kể chuyện đũa ở Quảng Nam sau chiến tranh.
 
Đó là vùng cát ven biển. Sau chiến tranh không còn lấy một cây tre. Làng mạc chỉ thông thống cát với cát. Người dân quay về làng cũ chợt thấy là thiếu gì cũng xoay xở được, nhưng thiếu đũa thì hàng chục cây số mới tìm được tre vót đũa. Mấy gia đình tản cư từ Đà Nẵng về nghe nói giữ đôi đũa rất kỹ sau mội bữa ăn vì sợ… ai đó lấy mất! Một nhà văn đi thực tế ở làng này, hỏi một chị phụ nữ đang lo gì nhất? Chị nói tỉnh queo: “Lo thiếu đũa anh à!”. Quả nhiên trong một đám cưới, anh chủ tịch xã do quá bực mình vì thiếu đũa đã la lớn: “Tới đôi đũa cũng không có mà ăn, ăn bốc mọi rợ, sống không ra người!...”.
 
Từ chuyện ấy, àm cả vùng cát mấy chục ngàn ngàn  dân sau chiến tranh đã trở thành một vành đai xanh với phong trào trồng cây phủ cát và trồng nhiều tre dọc sông Trường Giang để… không còn cảnh thiếu đũa!
 
Khi nhắc đến câu thơ cảm động của nhà thơ Thu Bồn ở đầu bài, tôi chợt liên tưởng đến bức ảnh chụp một bè mẹ người làng tôi có chín người con chết trong chiến tranh: Ngày hào bình, nhớ con đến đứt ruột, bữa ăn nào bà cũng dọn sẵn chín cái chén và gác trên đó chín đôi đũa để nhớ về những núm ruột bà đã mang nẵng đẻ dau. Tại khu tưởng niệm vụ khủng bố hồi năm 1995 ở Oklahama (Mỹ) có hàng trăm chiếc ghế lớn nhỏ đặt thành hàng bên phía tay phải khu di tích, người ta nói là mội chiếc ghế ấy tượng trung cho một thành viên gia đình là nạn nhân đã không về nữa trong bữa ăn. Nhưng đối với bà mẹ Việt Nam, mỗi đứa con là một đôi đũa. Đơn sơ vậy mà sao lòng ta quặn thắt!
 
Như đã kể, ông cụ tôi từng là thợ tre. Ông cố, ông nội và nhiều chú bác tôi ở nông thôn Quảng Nam và đã trở thành thợ tre khi nhu cầu xây dựng và dụng cụ sinh hoạt nở rộ ở cửa Hàn, phố Hội đầu thế kỷ 20. Cây tre làng tôi cũng háo thân thành những đôi đũa trên mâm cơm của nhiều gia đình thành thị. Cha tôi kể, để có những đôi đũa tốt, phải vót từ những gốc tre già, ngâm lâu cho gỗ tre chắc và không mối mọt. Ông lại kể: đóng giường, làm cột nhà  bằng te thì ông bà đã dạy Bộng trong, xong ngoài, nghĩa là ngoài đẹp thì chỗ nối phải khít. Còn vót đũa thì: đời cha cho chí đời con/ Muốn vót cho tròn hãy chẻ cho vuông. Vuông tròn cũng là hình ảnh của trời và đất trong tư duy của cha ông mình. Muốn vót được chiếc đũa tròn, thì tay nghề giỏi mà tâm phải tịnh!
 
“Con người ta lạ lắm! Cái gì cũng tre! Tre đi theo mình đến cuối đời. nào là cái áo quan, cái nuột lạt và cả đôi đũa cấm lên bát cơm cúng khi mình đã xuống lỗ!”. Lý sự như vậy nên những năm ra ở thành phố, cụ không bao giờ dũng đũa nhuộm, đũa gỗ. Mẹ tôi phải lặn lội về quê cả trong lúc đạn bom để tìm cho được vài cái ống tre già ở gốc để ông vót thành những đôi đũa cho cả gia đình.
 
Ở phố, những đứa em gái lại cứ quen chơi trò “đánh nẻ” bằng những bó đũa ấy. Đũa bẩn hay mất, cha tôi lại vui vẻ cậm cụi vót những đôi khác. Ông bảo: trong những trò chơi, thì đánh nẻ là của người Việt, không lai của người Chàm như trò u mọi, đập nồi.Và ông lại giải thích đôi đũa có từ thời Hùng Vương dựng nước. Nghe ông kể , tôi lại nghiệm ra khi đứa bé gái tung quả bóng lên cao rồi bốc từng bó đũa lên tay trước khi chụp quả bóng không cho rơi xuống… trong trò chơi đánh nẻ ấy lại hiển hiện  một ý nghĩa nào đó. Từ cô độc, đơn lẻ đến đoàn tụ và hoan lạc ! Trong niềm hoan lạc lứa đôi cũng có chiếc đũa Việt dự phần. Và ta lại nhớ đến tục “đơm lẻ, đơm chẵn  tức vót chiếc đũa tre thành những chùm bông để cầu tự, lại nhớ chuyện các cô dâu nghèo mượn lược làm trâm để phòng bất trắc đêm tân hôn, hay chuyện cấm chiếc đũa chờ trăng lên trong giai thoại về người mẹ giỏi văn chương và lý số Nhữ thị Thục: chờ trăng lên, soi đứng bóng chiếc đũa mới là lúc bà cho người chồng động phòng, vì vậy bà mẹ ấy đã sinh ra hai ông trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Khắc Khoan tài hoa trong sử Việt!
 
Ôi, đôi đũa Việt bốn ngàn năm thâm thúy một triết luận Á Đông!                                     
 
theo Trương Điện Thắng (Thời báo Kinh tế Sài Gòn)

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Các sáng lập viên

Thống kê truy cập

Đang truy cậpĐang truy cập : 145

Máy chủ tìm kiếm : 14

Khách viếng thăm : 131


Hôm nayHôm nay : 39202

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 936542

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 44304227



thiet ke ho ca koi mai hien di dong cong ty to chuc su kien thang may tai hang thang mang tai khach