Hệ
thống
xử
lý
nước
trạm
y
tế
phường
xã
ở
An
Giang.
ảnh:
HL
Từ
năm
1999,
Chính
phủ
đã
ban
hành
nghị
định
số
119/1999/NĐ-CP
nói
rõ
chính
sách
và
cơ
chế
tài
chính
khuyến
khích
các
doanh
nghiệp
(DN)
đầu
tư
vào
hoạt
động
khoa
học
và
công
nghệ
(KH&CN).
Trong
đó
chính
sách
hỗ
trợ
DN
tối
đa
không
quá
30%
tổng
kinh
phí
thực
hiện
đề
tài
nghiên
cứu
tạo
ra
công
nghệ
mới
thuộc
những
ngành
nghề
Nhà
nước
ưu
tiên
khuyến
khích
do
DN
thực
hiện.
Tuy
nhiên,
với
mức
hỗ
trợ
tối
đa
30%
dựa
vào
nguồn
lực
sẵn
có
của
DN,
việc
phát
triển
KH&CN
trong
DN
vừa
và
nhỏ
không
dễ
dàng
chút
nào.
Chủ
một
DN
ở
Bến
Tre
nói
rằng
để
việc
ứng
dụng
thành
tựu
nghiên
cứu
sản
xuất
mặt
nạ
dừa
đưa
ra
thị
trường,
bà
phải
mất
mười
năm.
Tốn
phí
tiền
của,
công
sức,
mồ
hôi
nước
mắt,
không
thể
tính
nổi.
Nhiều
hứa
hẹn
thương
mại
hoá
sản
phẩm
ươm
tạo
PGS.TS
Lê
Nguyễn
Đoan
Khôi,
giám
đốc
trung
tâm
Ươm
tạo
doanh
nghiệp
–
công
nghệ
(CBI),
trường
ĐH
Cần
Thơ,
cho
biết
hai
sản
phẩm
“đang
nóng”
trong
giao
dịch
là
giống
lúa
chịu
mặn,
chịu
phèn,
thích
ứng
biến
đổi
khí
hậu
(của
PGS.TS
Võ
Công
Thành);
và
đông
trùng
hạ
thảo,
chế
phẩm
sinh
học
phòng
trị
côn
trùng
VIRIN
ĐH
Cần
Thơ
(của
ThS
Trịnh
Thị
Xuân).
Theo
TS
Khôi,
một
số
kết
quả
nghiên
cứu
từ
trường
ĐH
Cần
Thơ
đã
và
đang
chuyển
giao
cho
các
DN
thương
mại
hoá:
phân
vi
sinh
Dasvila,
phân
bón
hữu
cơ,
bánh
đa
dưỡng
chất,
quy
trình
chế
biến
nước
xốt
cà
chua,
nước
ép
trái
cây,
quy
trình
nhân
giống
nhân
tạo
và
nuôi
thuỷ
sản
nước
ngọt
tại
đồng
bằng
sông
Cửu
Long
(ĐBSCL),
hệ
thống
sấy
khô
và
sàng
lọc
trứng
Artemia…
Hiện
nay
việc
ứng
dụng
nhanh
các
thành
tựu
đang
được
thúc
đẩy
nhằm
tạo
ra
sản
phẩm
đủ
sức
cạnh
tranh.
TS
Đỗ
Việt
Hà,
phó
trưởng
ban
quản
lý
khu
Nông
nghiệp
công
nghệ
cao
(NNCNC)
TP.HCM,
nơi
đầu
tiên
trong
cả
nước
có
khu
NNCNC,
hứa
sẽ
giúp
giám
đốc
công
ty
CP
Ramsa
nếu
anh
chịu
xách
túi
lên
trung
tâm
ở
một
tuần
hay
mười
ngày
cùng
làm
với
các
chuyên
gia.
“Nếu
có
liên
kết
tốt
giữa
DN
và
trung
tâm
công
nghệ
cao
thì
sẽ
tăng
khả
năng
thương
mại
hoá
sản
phẩm
ươm
tạo”,
ông
tin
chắc.
Năm
năm
hoạt
động,
khu
NNCNC
còn
70
hồ
sơ
xin
đầu
tư
vào
khu
công
nghiệp
nhưng
không
có
đất.
TP.HCM
sẽ
tiếp
tục
đầu
tư
mở
rộng.
Nhìn
từ
những
góc
“trời
riêng”
Bà
Lê
Hà
Mộng
Ngọc,
công
ty
CP
công
nghệ
sinh
học
Nấm
Việt
quan
tâm
nấm
đông
trùng
hạ
thảo
của
ThS
Trịnh
Thị
Xuân,
khoa
NN-SHUD,
trường
ĐH
Cần
Thơ.
Bản
thân
công
ty
Nấm
Việt
đang
tìm
kiếm
công
nghệ
sấy.
Tức
khắc
có
bốn
ứng
viên
đang
nắm
giữ
công
nghệ
sấy:
sấy
lạnh,
sấy
nhiệt
cao,
sấy
vỉ
ngang,
sấy
tháp
tuần
hoàn…
Nhưng
công
nghệ
nào
thích
hợp
với
mức
đầu
tư
khoảng
100
triệu
đồng?
Anh
Hà
Xuân
Long,
giám
đốc
công
ty
CP
Ramsa,
có
vốn
khởi
nghiệp
3
tỉ
đồng,
được
chuyên
gia
trường
ĐH
Cần
Thơ
chuyển
giao
công
thức
liền
phát
triển
dòng
sản
phẩm
sữa
sen
–
đặc
sản
có
“tên
tuổi”
của
tỉnh
Đổng
Tháp.
Sáu
tháng
sản
xuất
thử,
lấy
mẫu
phân
tích
để
xác
định
đúng
tố
chất
tạo
nên
giá
trị
giúp
giấc
ngủ
sâu
từ
sản
phẩm
này,
Long
đã
dùng
hạt
sen
tươi
và
enzyme
phân
huỷ
tinh
bột,
thiết
bị
lọc,
chiết
rót,
đo
độ
ngọt…
và
đang
tính
toán
hiệu
quả
để
đưa
sản
phẩm
ra
thị
trường.
Vấn
đề
đặt
ra
là
cứ
1,
5kg
sen
(70.000
đồng/kg
ngày
thường,
tháng
tết
150.000
đồng/kg)
cho
10
lít
sữa,
giá
hiện
thời
12.000
đồng/chai
sữa
(250g);
có
lời
nhưng
chi
phí
phân
phối
rất
cao,
phải
bảo
quản
lạnh,
hạn
sử
dụng
15
ngày.
Sản
phẩm
bị
động
khi
phát
triển
kênh
phân
phối
do
phải
bảo
quản
lạnh.
Nếu
đẩy
giá
cao
thì
người
tiêu
dùng
sẽ
ngán.
Ngược
lại,
giá
thấp
sẽ
không
hấp
dẫn
người
bán
lẻ.
Ai
cũng
khen
sữa
sen
độc
đáo,
ngon
lành
nhưng
chỉ
bán
trong
tỉnh
Đồng
Tháp,
mỗi
ngày
200
lít
là
cùng,
tương
ứng
1.000
chai.
“Vấn
đề
là
ở
công
nghệ.
Ramsa
đã
đầu
tư
thiết
bị
làm
sữa
sen:
500
triệu
đồng,
nếu
đầu
tư
cho
đồng
bộ
trà
sakê,
chả
giò
hạt
sen…
cần
cả
tỉ
đồng
nữa”,
Long
cho
biết
thêm,
nguồn
nguyên
liệu
hạt
sen
ở
Tháp
Mười
3.700ha,
tính
mùa
vụ
rõ
rệt.
Vào
mùa
trước
tết
giá
cao
gấp
ba
lần
ngày
thường
nên
cần
đầu
tư
công
nghệ
bảo
quản,
tiến
tới
đầu
tư
vùng
nguyên
liệu
và
khi
dung
lượng
thị
trường
ổn
định
sẽ
mở
rộng
liên
kết
hợp
tác
xã
đầu
tư
–
bao
tiêu
gắn
đề
án
tái
cơ
cấu
ngành
nông
nghiệp
của
tỉnh.
TS
Nguyễn
Hoàng
Nam,
trưởng
phòng
quản
lý
khoa
học
và
hợp
tác
quốc
tế
ban
quản
lý
khu
Công
nghệ
cao
TP.HCM,
chia
sẻ:
“Các
lĩnh
vực
KH&CN
của
các
đơn
vị
khác
hoàn
toàn
có
thể
liên
kết
với
nhau
để
tăng
hàm
lượng
đổi
mới
sáng
tạo,
không
chỉ
trong
lĩnh
vực
nông
nghiệp”.
Trước
mắt
cục
Khuyến
công
quốc
gia
duyệt
chi
hỗ
trợ
(chờ
giải
ngân)
mô
hình
trình
diễn
sản
xuất
tiêu
thụ
sữa
hạt
sen,
mức
250
triệu
đồng.
Nhưng
ai
sẽ
giúp
cho
Long
quy
trình
kéo
dài
thời
gian
bảo
quản
sản
phẩm
này?
Mong
mỏi
nhịp
cầu
Theo
PGS.TS
Dương
Văn
Chín,
giám
đốc
trung
tâm
nghiên
cứu
Định
Thành
(công
ty
CP
BVTV
An
Giang
–
AGPPS),
dưới
sự
điều
phối
chung
của
bộ
KH&CN,
các
viện
–
trường
nên
nghiên
cứu
cách
tổ
chức
giới
thiệu
công
khai
các
thành
quả
nghiên
cứu
công
nghệ
mới,
mời
các
DN
tham
gia,
tiếp
cận,
bàn
thảo
để
tiến
tới
thương
lượng
chuyển
giao
và
tiếp
nhận
công
nghệ
mới,
thực
hiện
nghĩa
vụ
mua
tác
quyền
giữa
các
DN
cùng
ngành
nghề.
Thứ
trưởng
bộ
KH&CN
Phạm
Công
Tạc
ví
von
ĐBSCL
có
nhiều
con
sông
thơ
mộng,
nhưng
sẽ
rất
có
ý
nghĩa
nếu
xây
được
những
nhịp
cầu.
Tổ
chức
cuộc
gặp
gỡ
giữa
các
nhà
nghiên
cứu,
DN
và
nhà
quản
lý
là
việc
làm
có
ý
nghĩa
thiết
thực
vì
sẽ
có
chào
hàng,
đặt
hàng,
sẽ
tìm
được
đầu
ra.
DN
đưa
yêu
cầu
sẽ
khiến
cho
hoạt
động
nghiên
cứu
và
nhu
cầu
xã
hội
gặp
nhau,
thúc
đẩy
sáng
tạo,
quá
trình
cũng
sẽ
giúp
cho
việc
điều
chỉnh
chính
sách
liên
quan
tới
sở
hữu
trí
tuệ,
KH&CN
phù
hợp
hơn.
Hội
thảo
này
chính
là
nhịp
cầu
kết
nối
giữa
viện
–
trường
và
DN,
cho
các
bên
gặp
nhau.
Bà
Vũ
Kim
Hạnh,
chủ
tịch
Hội
DN.HVNCLC
nhận
xét:
Người
có
nhu
cầu
mạnh
dạn
đặt
hàng
và
các
cuộc
kết
nối
cung
cầu
sẽ
giúp
tìm
thấy
nhiều
nơi
đáp
ứng.
Nhưng
các
chuyên
gia
của
khu
NNCNC
TP.HCM
cho
biết
sẽ
hợp
tác
với
ĐH
Cần
Thơ.
Cũng
từ
đây,
ý
tưởng
tổ
chức
cuộc
giao
lưu,
xúc
tiến
thị
trường
công
nghệ
sẽ
tiếp
tục
được
Hội
DN.HVNCLC,
cục
Phát
triển
thị
trường
công
nghệ
(NATEC)
phối
hợp
cùng
ĐH
Quốc
gia
TP.HCM
tiếp
tục
tổ
chức
vào
ngày
Khoa
học
–
công
nghệ
quốc
gia
(18.5).
“Nếu
có
liên
kết
tốt
giữa
Doanh
nghiệp
và
trung
tâm
công
nghệ
cao
thì
sẽ
tăng
khả
năng
thương
mại
hoá
sản
phẩm
ươm
tạo”. |
theo
Hoàng
Lan
(báo
Thế
Giới
Tiếp
Thị)