Thu
mua
tạm
trữ
lúa
gạo
ở
ĐBSCL:
Được-Mất
từ
một
chính
sách
Thứ
sáu
-
03/04/2015
02:28
Đến
hẹn
lại
lên,
vào
chính
vụ
thu
hoạch
lúa
khu
vực
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long,
Chính
phủ
ra
quyết
định
thu
mua
tạm
trữ
lúa
gạo
với
mục
tiêu
nhằm
kích
thích,
giảm
nguồn
cung
tạm
thời
trên
thị
trường,
đảm
bảo
lợi
nhuận
cho
nông
dân
trồng
lúa.
Nhưng
chính
sách
này
sau
nhiều
năm
triển
khai
vẫn
bị
những
kẻ
trục
lợi
“hớt
váng,”
còn
nông
dân
vẫn
ngóng
chờ
giá
lúa
lên
và
trông
chờ
vào
sự
hỗ
trợ
từ
Chính
phủ.
Vụ
Đông
Xuân
2014
-2015
này,
chính
sách
thu
mua
tạm
trữ
1
triệu
tấn
gạo
được
đưa
ra
trong
bối
cảnh
cũng
giống
như
những
lần
trước.
Giá
lúa
liên
tục
giảm
sút;
các
địa
phương
lại
ngóng
chờ
chính
sách
thu
mua
tạm
trữ
để
kéo
giá
lúa
lên.
Cộng
với
những
tín
hiệu
xuất
khẩu
chưa
có
gì
khả
quan,
khiến
doanh
nghiệp
càng
hững
hờ
và
áp
lực
lại
đặt
lên
vai
Chính
phủ.
Điều
khác
là,
trước
đây
yêu
cầu
tạm
trữ
thường
đặt
ra
cho
vụ
Hè-Thu,
vụ
gặp
khó
khăn
vì
thu
hoạch
trong
mùa
mưa.
Năm
nay,
tạm
trữ
được
thực
hiện
ngay
từ
vụ
Đông-Xuân,
vụ
có
lợi
thế
sản
xuất
tốt
nhất.
Trước
khi
triển
khai
chương
trình
thu
mua
tạm
trữ
năm
nay,
ông
Huỳnh
Minh
Huệ,
Tổng
thư
ký
Hiệp
hội
Lương
thực
Việt
Nam
cho
biết,
nếu
không
thu
mua
tạm
trữ,
giá
lúa
sẽ
giảm
mạnh
và
nông
dân
cũng
không
đạt
được
lợi
nhuận
tối
thiếu
theo
hướng
dẫn.
Đơn
cử
như
ngày
13/2,
giá
thị
trường
gạo
5%
tấm
giao
dịch
khoảng
360
USD/tấn,
gạo
25%
khoảng
340
USD/tấn.
Với
giá
giao
dịch
đã
xuống
đáy
như
vậy,
giá
gạo
ở
Việt
Nam
đã
thấp
hơn
Thái
Lan
rất
nhiều,
thậm
chí
gạo
25%
tấm
của
Thái
Lan
còn
cao
hơn
gạo
5%
tấm
của
Việt
Nam.
Khi
thị
trường
tiêu
thụ
khó
khăn,
Chính
phủ
phải
sử
dụng
chính
sách
thu
mua
tạm
trữ
lúa
gạo
nhằm
tạm
thời
làm
giảm
nguồn
cung
trên
thị
trường
và
giúp
ổn
định
lại
giá
cả.
Việc
thu
mua
tạm
trữ
dù
không
trực
tiếp
nhưng
sẽ
mang
lại
lợi
ích
cho
người
nông
dân,
khi
giá
trị
lúa
gạo
được
bảo
đảm
ở
trên
mức
có
lợi
nhuận
tối
thiểu
cho
nông
dân.
Tuy
nhiên,
trước
khi
tín
hiệu
giá
đến
được
với
nông
dân,
tiền
chính
sách
đi
qua
rất
nhiều
tầng
lớp
trung
gian
như
ngân
hàng,
doanh
nghiệp.
Theo
ông
Đặng
Kim
Sơn,
Viện
trưởng
Viện
Chính
sách
chiến
lược
phát
triển
nông
nghiệp
nông
thôn,
Bộ
Nông
nghiệp
và
Phát
triển
Nông
thôn,
chính
sách
này
tạo
tâm
lý
mua
vào
cho
nông
dân,
doanh
nghiệp,
thương
lái
và
cầu
có
tăng,
mặc
dù
là
cầu
ảo-cầu
tạm
trữ.
Điều
kiện
ngân
sách
hạn
hẹp
đã
khiến
việc
tạm
trữ
phải
thông
qua
nhiều
công
đoạn,
lòng
vòng.
Nhưng
việc
thu
mua
ngoài
phụ
thuộc
vào
yếu
tố
tâm
lý
đó,
yếu
tố
quan
trọng
hơn
là
sự
phân
tích,
tính
toán
của
doanh
nghiệp.
Đối
với
doanh
nghiệp,
yếu
tố
quyết
định
tình
hình
là
họ
có
bán
được
lúa
hay
không
và
điều
này
phụ
thuộc
thị
trường
thế
giới.
“Nếu
thấy
khả
năng
bán
được
họ
sẽ
mua,
thậm
chí
mua
hơn
cả
tạm
trữ.
Nếu
thấy
tình
hình
xuất
khẩu
khó
khăn,
họ
sẽ
không
mua.
Còn
việc
tuyên
bố
thực
chất
lại
mua
theo
hình
thức,”
ông
Sơn
đánh
giá.
Có
lẽ
cũng
chính
vì
thế
nên
việc
tạm
trữ
lúa
gạo
trong
những
ngày
đầu
thực
hiện
chính
sách
đã
diễn
ra
rất
chậm
chạp.
Về
cách
thu
mua
tạm
trữ
lại
không
căn
cứ
vào
diện
tích
canh
tác
của
địa
phương
mà
vẫn
căn
cứ
vào
số
lượng
doanh
nghiệp
có
khả
năng
thu
mua
và
tổ
chức
chế
biến
xuất
khẩu
để
phân
bổ.
Cộng
với
việc
triển
khai
thu
mua
tạm
trữ
chỉ
có
một
lần
trong
khi
các
tỉnh
lại
có
thời
điểm
gieo
cấy,
thu
hoạch
khác
nhau
nên
gây
nên
tình
trạng
bất
hợp
lý
giữa
các
địa
phương.
Không
chỉ
có
vậy,
doanh
nghiệp
xuất
khẩu
mạnh
được
ưu
tiên
tham
gia
tạm
trữ.
“Những
ông
lớn
như
Vinafood1,
Vinafood2
xuất
khẩu
mạnh
nhưng
lại
chưa
gắn
kết
với
nông
dân
trong
sản
xuất
lại
được
hưởng
lợi
lớn
nhất”
-
ông
Đặng
Kim
Sơn
bức
xúc.
Ông
Đào
Thế
Anh,
Giám
đốc
Trung
tâm
Nghiên
cứu
và
Phát
triển
hệ
thống
nông
nghiệp
cũng
cho
rằng,
chính
sách
gián
tiếp
đem
lại
lợi
ích
cho
nông
dân
chỉ
khi
giá
lúa
gạo
tăng,
còn
lợi
ích
trực
tiếp
vẫn
cho
doanh
nghiệp
và
thương
lái.
Theo
nhiều
chuyên
gia,
do
chính
sách
vẫn
tác
động
gián
tiếp
nên
rất
nhiều
cái
mất.
Nếu
có
thì
vẫn
chỉ
là
các
doanh
nghiệp
được,
nhất
là
các
doanh
nghiệp
nhà
nước.
Các
doanh
nghiệp
không
tham
gia
vào
trực
tiếp
sản
xuất
có
cơ
hội
tham
gia
vào
“hớt
váng”
và
nông
dân
được
xem
như
đỡ
khổ.
Bao
nhiêu
năm
nay,
Chính
phủ
tuyên
bố
đây
chỉ
là
chính
sách
tạm
thời,
chỉ
là
giải
pháp
tình
huống
nhưng
vụ
sau,
giá
lúa
lại
xuống,
Chính
phủ
lại
phải
tiến
hành
tạm
trữ.
Cũng
có
luồng
ý
kiến
cho
rằng,
do
Việt
Nam
sản
xuất
nhiều
lúa
gạo
dẫn
đến
dư
thừa
nhưng
theo
ông
Đặng
Kim
Sơn,
vấn
đề
do
Việt
Nam
vẫn
nhắm
vào
thị
trường
giá
rẻ,
chất
lượng
thấp,
như
Trung
Quốc,
Philippines,
châu
Phi…
Các
thị
trường
này
dễ
tính,
giá
rẻ
nhưng
sức
mua
không
có
vì
trông
vào
sự
trợ
cấp
của
nước
đó.
“Bản
thân
chúng
ta
bị
nuông
chiều,
thị
trường
dễ
tính
và
chính
sách
tạm
trữ
đã
đóng
góp
một
phần.
Cả
hai
bên
sản
xuất
và
tiêu
thụ,
cộng
với
chính
sách
Nhà
nước
đã
“tiếp
tay”
cho
thị
trường
tiêu
thụ
lúa
gạo
giá
rẻ,
chất
lượng
thấp,
khuyến
khích
các
doanh
nghiệp
đợi
hỗ
trợ
để
mua
của
dân,
đợi
nhà
nước
chỉ
đạo
ký
hợp
đồng
liên
Chính
phủ.
Như
vậy,
Việt
Nam
đã
sản
xuất
gạo
cho
thị
trường
chính
sách
chứ
không
phải
bán
cho
thị
trường
thương
mại”-
ông
Sơn
nhấn
mạnh.
Theo
ông
Đặng
Kim
Sơn,
để
xử
lý
tận
gốc
vấn
đề
phải
tái
cơ
cấu
ngành
lúa
gạo.
Đầu
tiên
cần
phải
chuyển
hướng
vào
thị
trường
có
giá
trị,
chất
lượng
cao.
Thị
trường
mà
cả
chính
sách
trong
nước
và
nước
ngoài
không
cần
phải
can
thiệp.
Bộ
Nông
nghiệp
và
Phát
triển
Nông
thôn
cần
nắm
lấy
công
cụ
thị
trường,
chuyển
sang
sản
xuất
có
chất
lượng,
giá
trị,
sản
xuất
hàng
hóa,
thay
đổi
về
kết
cấu
giống,
mùa
vụ,
cơ
cấu
canh
tác.
Khi
đó,
chính
sách
sẽ
hướng
vào
hỗ
trợ
xây
dựng
hợp
tác
xã,
cánh
đồng
mẫu
lớn.
Trước
mắt,
theo
ông
Đặng
Kim
Sơn,
hình
thức
tạm
trữ
phải
gắn
với
điều
kiện,
chỉ
cho
doanh
nghiệp
nào
thực
sự
gắn
với
nông
dân
và
mở
rộng
việc
hợp
tác
xã
tham
gia
thu
mua
tạm
trữ
đồng
thời
giao
cho
địa
phương
và
phân
bổ
theo
sản
lượng
cũng
như
khả
năng
xuất
khẩu.
Nếu
cần
thiết
thì
đấu
thầu
tạm
trữ
để
nguồn
tiền
Nhà
nước
từ
chương
trình
được
sử
dụng
hiệu
quả
hơn./.
Nguồn
tin:
TTXVN