TS
Nguyễn
Đình
Cung.
Nguồn:
Internet
Vốn
dị
ứng
với
những
nhận
định
theo
kiểu
“vì
khác
biệt,
có
những
điểm
Việt
Nam
chưa
thể
theo
chuẩn
chung
của
thế
giới”,
nên
lần
này,
TS.
Nguyễn
Đình
Cung,
Viện
trưởng
Viện
nghiên
cứu
quản
lý
kinh
tế
Trung
ương
trở
nên
hồ
hởi
khi
đề
cập
việc
Việt
Nam
đã
ra
khỏi
danh
sách
hai
quốc
gia
trên
thế
giới
duy
trì
mức
trần
chi
quảng
cáo,
để
Trung
Quốc
đứng
lại
đó
một
mình.
Sự
hồ
hởi
của
ông
Cung
một
phần
vì
doanh
nghiệp
tiết
kiệm
được
khá
nhiều
chi
phí
(gồm
cả
tiền
bạc,
thời
gian,
nhân
sự)
khi
được
trao
lại
quyền
quyết
định
vấn
đề
của
chính
mình,
nhưng
đó
chỉ
là
phần
ngọn.
“Nhiều
năm
qua,
Diễn
đàn
doanh
nghiệp
Việt
Nam
(VBF)
đã
tổ
chức
rất
nhiều
cuộc
làm
việc
với
ngành
thuế
chỉ
để
chứng
minh
rằng,
thông
lệ
quốc
tế
không
còn
áp
dụng
hạn
chế
này
nữa,
mới
đẩy
được
mức
giới
hạn
từ
10%
lên
15%.
Quyết
định
nới
trần
này
cũng
mới
được
áp
dụng
từ
1.01.2014.
Vậy
mà,
vài
tháng
sau,
Bộ
Tài
chính
đã
chủ
động
đề
xuất
phương
án
gỡ
bỏ”,
ông
Cung
nói
và
cho
rằng,
những
thay
đổi
trong
tư
duy
của
bộ
máy
quản
lý
nhà
nước
mới
thực
là
điều
ông
quan
tâm.
Còn
nhớ,
chỉ
2
năm
trước,
tại
VBF
giữa
kỳ
năm
2013,
đề
xuất
gỡ
trần
chi
phí
quảng
cáo
vẫn
được
lãnh
đạo
Bộ
Tài
chính
phản
biện
là
cần
có
lộ
trình,
và
rằng,
theo
tổng
kết
của
Bộ
này
thì
không
nhiều
doanh
nghiệp
dùng
hết
tỉ
lệ
khống
chế
10%,
trừ
một
số
doanh
nghiệp
có
tiềm
lực
tài
chính
mạnh.
Và
rằng,
việc
khống
chế
này
sẽ
bảo
vệ
doanh
nghiệp
nội,
doanh
nghiệp
nhỏ
và
vừa
còn
yếu
về
nguồn
lực
dành
cho
quảng
cáo…
Hơn
thế,
dù
không
nói
thẳng
ra,
nhưng
ẩn
sau
những
do
dự
về
việc
tăng
hay
gỡ
trần
chi
phí
quảng
cáo
của
Bộ
Tài
chính
còn
có
mối
lo
doanh
nghiệp
lách
luật
để
né
thuế.
Chính
bởi
vậy,
việc
Bộ
Tài
chính
chủ
động
đề
xuất
gỡ
trần
quảng
cáo,
theo
ông
Cung,
có
thể
coi
là
một
ví
dụ
điển
hình
cho
việc
các
cơ
quan
quản
lý
bắt
đầu
thấy
rõ
nhu
cầu
nắn
sự
khác
biệt
của
ta
vào
chuẩn
chung
của
toàn
cầu.
Có
lẽ
câu
chuyện
của
Taxi
Uber
cũng
sẽ
được
coi
là
một
ví
dụ
điển
hình
cho
những
thử
nghiệm
“nắn
sự
khác
biệt”
trong
năm
nay.
Trong
báo
cáo
mới
nhất
gửi
Ủy
ban
kinh
tế
của
Quốc
hội
vào
tháng
1.2015,
Bộ
Công
thương
một
mặt
khẳng
định
chưa
có
văn
bản
quy
phạm
pháp
luật
quy
định
về
hoạt
động
kinh
doanh
này,
mặt
khác
thể
hiện
quan
điểm
quản
lý
khá
mới.
Theo
đó
để
quản
lý
hiệu
quả
hoạt
động
của
Uber
và
các
mô
hình
kinh
doanh
tương
tự,
đòi
hỏi
một
tư
duy
quản
lý
mới
và
sự
phối
hợp
đồng
bộ
của
các
cơ
quan
chức
năng,
từ
Bộ
Giao
Thông
–
Vận
tải
đến
Bộ
Tài
chính,
Ngân
hàng
nhà
nước,
Bộ
Công
thương…
So
với
cách
đây
hơn
nửa
năm,
khi
Uber
bắt
đầu
vào
Việt
Nam,
quan
điểm
“đây
không
phải
là
hình
thức
kinh
doanh
vận
tải
phù
hợp
với
quy
định”
của
một
số
cơ
quan
quản
lý
đã
có
những
thay
đổi
lớn.
“Áp
lực
của
hội
nhập,
đặc
biệt
là
cách
áp
chuẩn
mực
của
thế
giới
đã
bắt
đầu
thay
được
tư
duy
cố
hữu,
vin
vào
đặc
thù
của
nền
kinh
tế
chuyển
đổi
để
du
di
trước
yêu
cầu
đổi
mới.
Khi
bộ
máy
quản
lý
bắt
đầu
có
áp
lực
đổi
mới
theo
yêu
cầu
phát
triển,
coi
doanh
nghiệp
là
đối
tác
trong
giải
quyết
các
vấn
đề
phát
triển
thay
vì
là
đối
tượng
quản
lý,
không
coi
những
sáng
tạo
trong
kinh
doanh
là
vi
phạm
pháp
luật…,
thì
nền
kinh
tế
Việt
Nam
sẽ
bắt
đầu
đột
phá”,
ông
Cung
lạc
quan.
Mấu
chốt
vấn
đề
nằm
ở
chỗ,
phải
nhìn
thấy
sự
khác
biệt
để
sẵn
sàng
thay
đổi.
Cách
tốt
nhất
để
tìm
sự
khác
biệt
trong
thế
giới
ngày
càng
phẳng
hơn,
theo
TS.
Trần
Đình
Thiên,
Viện
trưởng
Viện
kinh
tế
Việt
Nam,
là
soi
mình
vào
thông
lệ
quốc
tế.
Đây
là
lý
do
ông
tâm
đắc
nhất
tới
một
bảng
xếp
hạng
trong
bảng
báo
cáo
có
chủ
đề
“Lựa
chọn
sự
thịnh
vượng”
của
ông
Olin
Mc
Gill,
chuyên
gia
của
Chương
trình
quản
lý
vì
tăng
trưởng
trọn
vẹn
(Governance
for
Inclusive
Growth)
của
cơ
quan
phát
triển
Hoa
Kỳ
(USAID)
đưa
ra
vào
cuối
năm
ngoái,
sau
khi
ngân
hàng
thế
giới
(WB)
công
bố
Bảng
xếp
hạng
môi
trường
kinh
doanh
2014.
Ông
Thiên
đã
nhắc
tớ
sự
chênh
lệch
thu
nhập
gữa
Việt
Nam,
với
tư
cách
là
nền
kinh
tế
đứng
thứ
99
trong
bảng
xếp
hạng
môi
trường
kinh
doanh
2014
và
các
nền
kinh
tế
có
vị
trí
tương
đương
với
sự
trăn
trở
rất
lớn
về
những
gì
“đáng
ra
kinh
tế
Việt
Nam
phải
đạt
được”.
Theo
cách
tính
của
ông
Mc
Gill,
các
nền
kinh
tế
đứng
ở
vị
trí
từ
91
-
120
với
sự
tương
đương
về
môi
trường
kinh
doanh
có
chỉ
số
GNI
(tổng
thu
nhập
quốc
gia)
bình
quân
năm
2012
là
7.545
USD.
Trong
khi
đó,
cùng
năm
2012,
GNI
của
Việt
Nam
là
1.400
USD.
Đáng
buồn
nữa
khi
nhìn
vào
bảng
diễn
tả
biến
động
của
mức
thu
nhập
bình
quân
đầu
người
của
Việt
Nam
và
nền
kinh
tế
được
ông
Mc
Gill
lựa
chọn
để
so
sánh
là
Malaysia
trong
10
năm
qua,
khoảng
doãng
ngày
càng
lớn.
Trong
khi
Malaysia
đang
tiếp
cận
dần
với
mức
thu
nhập
bình
quân
đầu
người
của
thế
giới
và
có
thể
đạt
mục
tiêu
trở
thành
nước
giàu
có
vào
năm
2020,
đã
bứt
phá
rất
mạnh
trong
bảng
xếp
hạng
môi
trường
kinh
doanh
của
WB,
vươn
từ
thứ
28
năm
2013
lên
thứ
6
năm
2014,
thì
Việt
Nam
vẫn
đang
loay
hoay
với
mục
tiêu
thu
hẹp
khoảng
cách.
Phải
nói
thêm,
ông
Olin
Mc
Gill
đến
Việt
Nam
trong
vai
trò
chuyên
gia
giúp
phân
tích
các
chỉ
chỉ
số
thành
phần
trong
bảng
xếp
hạng
về
môi
trường
kinh
doanh
của
WB,
nhưng
ông
không
phải
là
chuyên
gia
nghiên
cứu
về
Việt
Nam,
chưa
hiểu
nhiều
về
thực
trạng
môi
trường
kinh
doanh
Việt
Nam.
Ánh
minh
họa:
Internet
Chính
sự
khách
quan
này
đã
khiến
vị
chuyên
gia
không
né
tránh
khi
nhận
định,
hiệu
quả
điều
hành
kém
khiến
GNI
của
Việt
Nam
chỉ
đạt
1.400
USD,
kém
6.145
USD
so
với
các
quốc
gia
tương
đương
về
môi
trường
kinh
doanh.
Ông
này
cũng
tính
được
rằng,
khoảng
cách
từ
21
ngày
làm
thủ
tục
nhập
khẩu,
xuất
khẩu
của
Việt
Nam
với
thời
gian
7
ngày
của
nước
đứng
thứ
10
trong
bảng
xếp
hạng
môi
trường
kinh
doanh
đã
“lấy
đi”
mất
của
Việt
Nam
khoảng
43,2
tỉ
USD
mỗi
năm.
Số
tiền
này
chính
là
chi
phí
thời
gian,
công
sức
và
vật
chất
mà
cả
ngân
sách
nhà
nước,
doanh
nghiệp
phải
bỏ
ra
vì
khoảng
thời
gian
tăng
thêm
không
đáng
có.
Nếu
thực
sự
cắt
được
số
ngày
thừa
trong
chuỗi
thủ
tục
hành
chính
này,
đối
tượng
hưởng
lợi
sẽ
không
chỉ
là
doanh
nghiệp.
TS,
Trần
Đình
Thiên
thẳng
thắn:
bộ
máy
quản
lý
có
thể
được
lợi
lớn
khi
công
chức
làm
việc
đúng
theo
trách
nhiệm.
Đơn
cử
như
việc
cắt
giảm
rất
nhanh
hơn
200
giờ
nộp
thuế
chỉ
nhờ
xốc
lại
cách
thức
làm
việc
trong
nội
bộ
cơ
quan
quản
lý
nhà
nước,
qua
việc
chỉnh
sửa
các
thông
tư
của
Bộ
Tài
chính.
Hay
tốc
độ
cổ
phần
hóa,
thoái
vốn
của
các
doanh
nghiệp
nhà
nước
năm
2014
chỉ
bắt
đầu
tăng
sau
khi
nguyên
tắc
người
đứng
đầu
phải
chịu
trách
nhiệm
được
công
khai.
“Rõ
ràng,
việc
gắn
trách
nhiệm
cá
nhân
với
bảng
phân
công
công
việc
để
đánh
giá
vị
trí
làm
việc
đã
bắt
đầu
tạo
ra
sức
ép
để
thay
đổi
trong
từng
công
chức,
từ
đó
đẩy
cả
hệ
thống
hành
chính
chuyển
dịch”,
ông
Thiên
chia
sẻ
quan
điểm.
Lâu
lắm
mới
thấy
TS.
Đỗ
Hoài
Nam,
Nguyên
chủ
tịch
Viện
khoa
học
xã
hội
Việt
Nam,
nay
là
Viện
Hàn
lâm
khoa
học
Việt
Nam
xuất
hiện
trong
những
buổi
tọa
đàm
mở
về
kinh
tế
vĩ
mô.
Ông
vốn
là
người
cổ
súy
cho
sự
kiên
định,
triệt
để,
mạnh
mẽ
và
đồng
bộ
trong
đổi
mới
kinh
tế,
đặc
biệt
phải
đảm
bảo
vững
chắc
hơn
theo
định
hướng
thị
trường.
Những
câu
đầu
tiên
ông
phát
biểu
tại
tọa
đàm
Đổi
mới
mô
hình
tăng
trưởng
gắn
với
cơ
cấu
lại
nền
kinh
tế
vào
những
ngày
cuối
năm
2014,
lại
là
một
câu
hỏi:
“Chúng
ta
đã
thực
sự
theo
tiếng
gọi
của
thị
trường
khi
thực
hiện
tái
cơ
cấu
nền
kinh
tế
chưa?”.
Ông
trả
lời
luôn:
“Vẫn
còn
tiếng
kèn
ngập
ngừng
trong
tư
duy
và
hành
động”.
Chính
sự
ngập
ngừng
đang
tạo
nên
những
hệ
lụy
lớn
trong
tiến
trình
đổi
mới.
Nhiều
chuyên
gia
kinh
tế
có
mặt
tại
tọa
đàm
đồng
tình
với
quan
điểm
này.
Các
chuyên
gia
cho
rằng,
về
mặt
lý
thuyết
và
kinh
nghiệm
quốc
tế,
trục
chính
của
tái
cơ
cấu
phải
là
thị
trường.
Chúng
ta
không
thể
tái
cơ
cấu
nông
nghiệp
nếu
như
không
nhìn
thấy
bóng
dáng
của
doanh
nghiệp
tư
nhân
ở
nông
thôn,
không
thể
công
nghiệp
hóa
nông
thôn
nếu
không
nhìn
thấy
tín
hiệu
thị
trường
nông
thôn
trong
các
kế
hoạch
kinh
doanh
của
các
doanh
nghiệp.
“Chính
sách
nhà
nước
nên
chăng
là
tác
nhân
thúc
đẩy
thị
trường
làm
tốt
vai
trò
của
mình,
chứ
không
thể
can
thiệp
quá
nhiều
bằng
quyết
định
hành
chính”,
ông
Nam
nói
và
kêu
gọi
hãy
trả
lại
cho
thị
trường
những
gì
thuộc
về
nó,
còn
nhà
nước
tạo
điều
kiện,
môi
trường,
kiểm
tra,
giám
sát
và
sẵn
sàng
can
thiệp
một
khi
thị
trường
tham
gia
vào
tái
cơ
ấu
có
rủi
ro,
giải
quyết
các
vấn
đề
xã
hội.
Như
vậy,
theo
ông
Nam,
công
việc
của
nhà
nước
lúc
này
là
ra
soát
hệ
thống
chính
sách,
cái
gì
là
lực
cản
cho
thị
trường
thì
xóa
bỏ,
thay
đổi,
cái
gì
cần
Nhà
nước
ra
tay
thì
phải
làm
quyết
liệt
hơn,
như
phân
bổ
nguồn
lực,
xác
định
lợi
thế
so
sánh
nhưng
với
tư
duy
mới
chứ
không
thể
ngập
ngừng,
vương
vấn
trong
lý
luận
cũng
như
trong
thực
tiễn.
“Trong
sự
đổi
mới
này,
quan
trọng
là
đổi
mới
vai
trò
của
bộ
máy
nhà
nước,
của
con
người
trong
bộ
máy.
Có
thể
chúng
ta
sẽ
phải
chịu
đau,
phải
trả
giá
vì
không
có
sự
đổi
mới
nào
diễn
ra
trong
nhung
lụa,
nhưng
đổi
lại,
niềm
tin
của
dân
chúng,
của
xã
hội
sẽ
trở
lại,
tạo
động
lực
cho
đổi
mới,
sáng
tạo”,
ông
Nam
nói.
Cách
đây
vài
năm,
sự
khác
biệt
của
nền
kinh
tế
Việt
Nam
–
một
nền
kinh
tế
chuyển
đổi,
có
xuất
phát
điểm
thấp,
nguồn
lực
hạn
chế…
vẫn
được
các
chuyên
gia
trong
nước
và
nước
ngoài
coi
là
lý
do
Việt
Nam
cần
thêm
thời
gian
để
tiếp
cận
đến
các
chuẩn
mực,
thông
lệ
tốt
của
thế
giới.
Nhưng
hiện
giờ,
các
chuyên
gia
này
đã
nói,
toàn
cầu
hóa
không
có
ngoại
trừ.