Chỉ
số
công
nghiệp
cộng
dồn
so
với
cùng
kỳ
từ
tháng
7-12
của
năm
2011
và
hai
tháng
đầu
năm
2012
đi
xuống
một
cách
đều
đặn,
cho
thấy
sản
xuất
bị
đình
trệ
rất
rõ.
Vấn
đề
kiềm
chế
lạm
phát
được
đặt
ra
là
cấp
thiết,
tuy
nhiên
các
chính
sách
cũng
cần
chú
tâm
vào
vấn
đề
an
sinh
xã
hội,
hỗ
trợ
khu
vực
kinh
tế
ngoài
nhà
nước
và
vực
dậy
sản
xuất
trong
nước.
Nếu
tình
trạng
đình
trệ
sản
xuất
kéo
dài,
có
thể
ngay
mục
tiêu
lạm
phát
một
con
số
cũng
không
đạt
được.
Dấu
hiệu
sản
xuất
đình
đốn
từ
chỉ
số
công
nghiệp
Năm
2011
là
năm
bắt
đầu
thực
hiện
các
chính
sách
thắt
chặt
tiền
tệ,
lãi
suất
ngân
hàng
tăng
cao,
cắt
giảm
đầu
tư
công...
Nhưng
các
doanh
nghiệp
vẫn
còn
đủ
lực
và
đà
từ
các
năm
trước,
nên
chỉ
số
công
nghiệp
đến
bảy
tháng
vẫn
tăng
xấp
xỉ
9%,
nhưng
sau
đó
bắt
đầu
sụt
giảm
đều
đặn
và
nhanh
chóng.
Đến
cuối
năm
2011,
chỉ
số
tăng
trưởng
công
nghiệp
giảm
từ
9%
xuống
còn
6,8%.
Tức
là
trong
quí
4,
ảnh
hưởng
của
việc
thắt
chặt
tiền
tệ
đến
sản
xuất
rất
rõ
ràng.
Đến
tháng
2-2012
chỉ
số
tăng
trưởng
giảm
mạnh
(chỉ
còn
tăng
khoảng
4%),
đặc
biệt
nhóm
ngành
công
nghiệp
chế
biến
chế
tạo
chỉ
tăng
2,4%
trong
khi
chỉ
số
này
bảy
tháng
đầu
năm
2011
so
với
cùng
kỳ
tăng
12%.
Chỉ
số
công
nghiệp
tăng
4%
trong
hai
tháng
đầu
năm
2012,
một
phần
do
khai
thác
than
và
dầu
khí
tăng
(xấp
xỉ
7%).
Nhóm
ngành
công
nghiệp
chế
biến
chế
tạo
đạt
tăng
trưởng
dù
rất
thấp
(2,4%)
nhưng
cũng
do
công
nghiệp
chế
biến
sản
phẩm
nông
nghiệp
và
đặc
biệt
là
ngành
sửa
chữa
và
đóng
tàu
đột
nhiên
tăng
rất
mạnh
(303%).
Còn
lại
rất
nhiều
ngành
có
tỷ
trọng
đóng
góp
trong
tổng
giá
trị
sản
xuất
cao
thì
lại
tăng
trưởng
âm,
cho
thấy
xu
hướng
sản
xuất
sụt
giảm
nhanh
chóng
trong
tám
tháng
gần
đây.
Dấu
hiệu
từ
nhập
khẩu
giảm
sút
và
số
công
ty
phá
sản
Kim
ngạch
hàng
hóa
xuất
khẩu
hai
tháng
đầu
năm
nay
đạt
15,3
tỉ
đô
la
Mỹ,
tăng
24,8%
so
với
cùng
kỳ
năm
2011,
nếu
loại
trừ
yếu
tố
giá
thì
chỉ
tăng
7-8%.
Kim
ngạch
hàng
hóa
nhập
khẩu
hai
tháng
đầu
năm
đạt
15,9
tỉ
đô
la
Mỹ,
tăng
11,8%
so
với
cùng
kỳ
năm
trước,
bao
gồm:
khu
vực
kinh
tế
trong
nước
đạt
7,7
tỉ
đô
la
Mỹ,
giảm
6,4%;
và
khu
vực
có
vốn
đầu
tư
nước
ngoài
đạt
8,2
tỉ
đô
la
Mỹ,
tăng
36,8%.
Nếu
loại
trừ
yếu
tố
giá
thì
nhập
khẩu
hai
tháng
giảm
khoảng
3-4%
so
với
cùng
kỳ
năm
trước.
Điều
đáng
lưu
ý
là
kim
ngạch
nhập
khẩu
của
khu
vực
kinh
tế
trong
nước
giảm
6,4%
và
nếu
loại
trừ
yếu
tố
giá
thì
nhập
khẩu
của
khu
vực
này
giảm
rất
sâu.
Đáng
lưu
ý
nữa
là
một
số
nhóm
hàng
có
kim
ngạch
xuất
khẩu
tăng
mạnh
như
dệt
may,
giày
dép...
thì
nhập
khẩu
các
nguyên
vật
liệu
đầu
vào
của
nhóm
hàng
này
trong
hai
tháng
đầu
năm
giảm
mạnh.
Trong
khi
sản
xuất
nhóm
hàng
này
chủ
yếu
dựa
vào
nguyên
liệu
nhập
khẩu,
có
thể
suy
đoán
việc
nhập
khẩu
giảm
báo
trước
nguy
cơ
đình
trệ
sản
xuất
trong
vài
tháng
tiếp
theo
của
năm.
Ngoài
ra,
có
thể
thấy
tác
động
rất
mạnh
của
khủng
hoảng
và
các
chính
sách
thắt
chặt
tiền
tệ
trong
năm
2011
qua
số
lượng
lớn
các
công
ty
ngưng
sản
xuất
hay
phá
sản.
Theo
điều
tra
của
Phòng
Thương
mại
và
Công
nghiệp
Việt
Nam
(VCCI),
tính
đến
cuối
năm
2011
đã
có
đến
khoảng
79.000
doanh
nghiệp
giải
thể
(nhiều
nhất
là
các
công
ty
cổ
phần,
đến
41.357
doanh
nghiệp).
Tổng
số
doanh
nghiệp
thành
lập
trong
năm
2011
là
77.548
doanh
nghiệp,
nhưng
đã
có
đến
7.611
doanh
nghiệp
phải
sớm
dừng
hoạt
động.
Các
doanh
nghiệp
ngừng
hoạt
động,
giải
thể,
dẫn
đến
người
lao
động
mất
việc
làm,
thu
nhập
giảm
sút,
sức
mua
kém
hẳn.
Vấn
đề
chưa
dừng
lại
ở
đó,
các
yếu
tố
đầu
vào
thiết
yếu
của
sản
xuất
lại
tăng
giá,
như
xăng
dầu,
tiếp
đến
sẽ
là
điện...
sẽ
có
những
ảnh
hưởng
gián
tiếp
đến
các
ngành
khác
và
lên
toàn
bộ
nền
kinh
tế.
Tiền
tệ
thắt
chặt,
tài
khóa
vẫn
mở:
lạm
phát
-
đình
đốn
Mục
đích
của
chính
sách
thắt
chặt
tiền
tệ
trong
năm
2011,
nhất
là
từ
lúc
áp
dụng
Nghị
quyết
11
vào
tháng
2-2011,
là
để
giảm
tổng
cầu
và
giảm
lạm
phát.
Hình
2
cho
thấy
chính
sách
đã
có
những
kết
quả
nhất
định
từ
tháng
7-2011
khi
mức
lạm
phát
tháng
giảm
dần,
điều
này
phù
hợp
với
các
dấu
hiệu
của
nền
sản
xuất
chậm
lại
cũng
từ
tháng
7-2011
như
nhận
định
ở
trên.
Tuy
nhiên,
điều
đáng
bàn
ở
đây
là
giới
hữu
trách
đã
dựa
quá
nhiều
vào
chính
sách
tiền
tệ,
thật
ra
chỉ
dồn
vào
đẩy
mức
lãi
suất
lên
cao
để
giảm
cầu
trong
khu
vực
tư
nhân,
nhưng
vẫn
để
chính
sách
tài
khóa
tương
đối
mở
rộng,
bằng
cớ
là
thu
-
chi
ngân
sách
vẫn
phình
to
kỷ
lục
trong
năm
2011.
Nói
ngắn
gọn
là
chính
sách
tài
khóa
đã
không
trợ
giúp
chính
sách
tiền
tệ
để
chặn
đứng
lạm
phát,
trong
khi
mặt
bằng
lãi
suất
cao
và
các
biện
pháp
hành
chính
có
tính
“chữa
cháy”
và
ngắn
hạn
tiếp
theo
đó
của
Ngân
hàng
Nhà
nước
(NHNN)
đã
khiến
“tín
dụng
phi
chính
thức”
tràn
ngập,
đẩy
hệ
thống
ngân
hàng
thành
rối
loạn.
Việc
khó
tiếp
cận
tín
dụng
ở
mức
lãi
suất
vừa
phải
đã
là
nguyên
nhân
chính
khiến
nhiều
doanh
nghiệp
phá
sản
cũng
như
sản
xuất
đình
đốn.
Bài
Để
tránh
lạm
phát
đình
đốn
trên
TBKTSG
tuần
trước
đã
đề
cập
nhu
cầu
cấp
thiết
phải
thắt
chặt
ngay
chính
sách
tài
khóa,
nhất
là
việc
cắt
các
đầu
tư
công
dàn
trải
và
phung
phí,
để
trợ
giúp
chính
sách
tiền
tệ
trong
việc
giảm
lạm
phát,
đồng
thời
cho
phép
chính
sách
tiền
tệ
được
nới
lỏng
để
giảm
lãi
suất
như
NHNN
đang
cố
thực
hiện.
Nếu
không,
tình
trạng
đình
đốn
sẽ
trở
nên
nguy
cấp
hơn,
ảnh
hưởng
nghiêm
trọng
đến
nguồn
cung
của
nền
kinh
tế.
Thiếu
cung
nội
địa,
cùng
với
các
chi
phí
đẩy
khác
như
giá
xăng
dầu
tăng
(từ
tháng
3),
giá
điện
có
khả
năng
sẽ
tăng
và
lương
tăng
(tháng
5)
có
thể
sẽ
là
nguyên
nhân
gây
nên
lạm
phát
bùng
phát
từ
quí
3,
như
chúng
tôi
dự
báo
trong
hình
2.
Cuối
cùng,
cần
nhấn
mạnh
sự
cấp
thiết
bãi
bỏ
sớm
các
biện
pháp
hành
chính
nói
trên
của
NHNN,
như
áp
lãi
suất
huy
động
trần
và
việc
phân
bổ
hạn
ngạch
tín
dụng
cho
bốn
nhóm
ngân
hàng,
nếu
chúng
ta
muốn
có
“tiếng
nói
của
thị
trường”
để
giúp
các
doanh
nghiệp
được
tiếp
cận
tín
dụng
nhanh
chóng.