Một
năm
có
quá
nhiều
sự
kiện
quan
trọng,
có
nhiều
đổi
thay
và
xáo
trộn
trong
hoạt
động
của
các
ngân
hàng
thương
mại.
Nhiều
người
trong
ngành
vẫn
cho
rằng
2011
còn
khó
khăn
hơn
cả
năm
khủng
hoảng
2008.
VnEconomy
cùng
bạn
đọc
điểm
lại
10
sự
kiện
nổi
bật
nhất
trong
năm
2011
này,
trong
đó
"VND
đã
đi
đâu?"
là
một
câu
hỏi
đặt
ra.
1.
Tín
dụng,
cung
tiền
thấp
nhất
hơn
15
năm
qua
Trên
biểu
đồ
dữ
liệu
tăng
trưởng
tín
dụng
và
tổng
phương
tiện
thanh
toán
của
hơn
15
năm
trở
lại
đây,
kết
quả
của
năm
2011
tạo
một
điểm
rơi
rõ
rệt,
thấp
hơn
cả
hai
điểm
trũng
của
năm
1998
và
2002.
Bản
thân
năm
2011,
kết
quả
của
nó
cũng
thấp
hơn
hẳn
các
chỉ
tiêu
đề
ra.
Đầu
năm,
triển
khai
Nghị
quyết
số
11
của
Chính
phủ,
chỉ
tiêu
tăng
trưởng
tín
dụng
năm
nay
giới
hạn
dưới
20%,
tổng
phương
tiện
thanh
toán
khoảng
15%
-
16%.
Thế
nhưng,
kết
quả
ước
tính
lần
lượt
chỉ
là
12%
và
10%.
Ngân
hàng
Nhà
nước
nhấn
mạnh
kết
quả
đó
ở
giá
trị
kiềm
chế
lạm
phát,
ở
khả
năng
hấp
thụ
vốn
của
nền
kinh
tế
cải
thiện.
Tuy
nhiên,
mặt
trái
của
hai
tỷ
lệ
quá
thấp
đó
đến
nay
vẫn
chưa
được
phân
tích
một
cách
rõ
ràng
và
cụ
thể.
Còn
trên
thực
tế,
đó
là
hai
trở
ngại
lớn
đối
với
nỗ
lực
giảm
lãi
suất,
với
khả
năng
tiếp
cận
vốn
của
các
doanh
nghiệp.
2.
Chuyển
giao
hai
nhiệm
kỳ
Thống
đốc
Năm
2011
khá
đặc
biệt
khi
chứng
kiến
sự
chuyển
giao
giữa
hai
nhiệm
kỳ
Thống
đốc.
Tính
chất
đặc
biệt
của
nó
có
ở
nhiều
thay
đổi
trong
quản
lý
và
điều
hành
chính
sách
tiền
tệ.
Ngày
3/8,
hệ
thống
chính
thức
đón
nhận
người
đứng
đầu
mới
là
ông
Nguyễn
Văn
Bình.
Ngay
trong
những
ngày
đầu,
dưới
sự
điều
hành
của
tân
Thống
đốc,
thị
trường
ghi
nhận
những
thay
đổi
cơ
bản.
Đó
là
siết
lại
trật
tự
hệ
thống
về
lãi
suất
và
tỷ
giá,
hướng
đi
mới
trong
bình
ổn
thị
trường
vàng
và
sự
vào
cuộc
giảm
lãi
suất
cho
vay;
chính
thức
triển
khai
lộ
trình
tái
cơ
cấu
hệ
thống.
Thay
đổi
cụ
thể
hơn
là
việc
bỏ
những
rào
cản
quan
trọng
trong
Thông
tư
13
và
19
có
hiệu
lực
trong
năm
2010;
mở
lại
cơ
chế
cho
vàng
tài
khoản;
“giải
phóng”
cho
4
nhóm
đối
tượng
thoát
rổ
tín
dụng
phi
sản
xuất;
khởi
động
cơ
chế
phân
bổ
chỉ
tiêu
tín
dụng
thay
vì
cào
bằng…
3.
Căng
thẳng
trần
lãi
suất
Không
mới,
trần
lãi
suất
huy
động
VND
14%/năm
là
câu
chuyện
của
năm
2010
chuyển
giao.
Nhưng
đến
năm
2011
nó
diễn
biến
phức
tạp
và
căng
thẳng.
Từ
tháng
8
trở
về
trước,
hiện
tượng
phá
trần
trở
nên
phổ
biến
gây
méo
mó,
bất
ổn
trong
hoạt
động
của
các
ngân
hàng
thương
mại.
Từ
tháng
8
trở
về
sau,
trần
lãi
suất
được
làm
nghiêm,
gắn
với
những
quyết
định
xử
phạt
xôn
xao
trên
thị
trường,
trong
đó
có
cả
dư
luận
về
cái
gọi
là
ngân
hàng
“cài
bẫy”
ngân
hàng.
Thế
nhưng,
thời
điểm
cuối
năm,
chính
thức
và
bên
lề,
thông
tin
ngân
hàng
vượt
trần
lãi
suất
lại
rộ
lên
và
một
lần
nữa
đặt
ra
yêu
cầu
vào
cuộc,
giám
sát
gắt
gao
từ
Ngân
hàng
Nhà
nước.
Là
một
giải
pháp
hành
chính
mang
tính
tình
thế,
cho
đến
nay
trần
lãi
suất
vẫn
chưa
thể
được
điều
chỉnh
hay
gỡ
bỏ,
dù
khi
tiếp
nhận
vị
trí
đứng
đầu
Ngân
hàng
Nhà
nước,
Thống
đốc
Nguyễn
Văn
Bình
đã
đưa
ra
thông
điệp
sẽ
gỡ
bỏ.
4.
Nước
rút
hạ
tỷ
trọng
tín
dụng
phi
sản
xuất
Ngày
1/3/2011,
Thống
đốc
Ngân
hàng
Nhà
nước
ban
hành
Chỉ
thị
số
01/CT-NHNN,
trong
đó
quy
định
đến
30/6/2011
tỷ
trọng
dư
nợ
cho
vay
lĩnh
vực
phi
sản
xuất
so
với
tổng
dư
nợ
tối
đa
phải
là
22%
và
đến
31/12/2011
tối
đa
là
16%.
Chỉ
thị
này
lập
tức
tác
động
mạnh
đến
hoạt
động
của
các
ngân
hàng
thương
mại,
thường
trực
và
căng
thẳng
cho
đến
hết
năm.
Đó
là
một
cuộc
đua
nước
rút
hạ
tỷ
trọng
tín
dụng
phi
sản
xuất,
mà
phản
ứng
là
sự
“đóng
băng”
tín
dụng
tiêu
dùng
tại
nhiều
ngân
hàng,
sự
chao
đảo
của
thị
trường
bất
động
sản
và
sự
suy
giảm
kéo
dài
của
thị
trường
chứng
khoán…
Một
tháng
trước
hạn
31/12
với
rào
cản
16%
nói
trên,
Ngân
hàng
Nhà
nước
có
động
thái
“nởi
lỏng”
khi
mở
cơ
chế
cho
loại
trừ
4
nhóm
đối
tượng
thoát
nhóm
tính
dư
nợ
phi
sản
xuất.
5.
Tỷ
giá
và
“cam
kết
không
quá
1%”
Ngày
7/9/2011,
tại
hội
nghị
toàn
ngành,
Ngân
hàng
Nhà
nước
đưa
ra
thông
điệp:
dư
sức
để
can
thiệp
những
biến
động
trên
thị
trường
ngoại
hối,
và
nếu
điều
chỉnh
tỷ
giá
thì
từ
đó
đến
cuối
năm
không
quá
1%.
Đến
nay,
cam
kết
này
được
giữ
vững,
tỷ
giá
USD/VND
có
sự
ổn
định
tương
đối
trong
khoảng
nửa
cuối
năm
2011.
Những
cơn
sốt
tỷ
giá
vào
cuối
năm
và
ám
ảnh
của
“con
ngáo
ộp”
tín
dụng
ngoại
tệ
đến
thời
điểm
này
có
thể
nói
đã
được
loại
trừ.
Có
một
điểm
trong
thông
điệp
ngày
7/9
ít
được
dư
luận
chú
ý
là
từ
“dư
sức”
mà
Ngân
hàng
Nhà
nước
dùng
đến.
Phía
sau
từ
“dư
sức”là
sự
gia
tăng
rất
nhanh
và
mạnh
của
dự
trữ
ngoại
tệ
trước
đó,
kết
quả
của
loạt
giải
pháp
triển
khai
quyết
liệt
từ
đầu
năm,
từ
áp
trần
lãi
suất
huy
động
USD,
kết
hối
và
mở
rộng
kết
hối,
đến
những
chuyển
biến
vĩ
mô
với
trạng
thái
thặng
dư
khá
lớn
của
cán
cân
tổng
thể…
6.
Tái
cấu
trúc
và
sự
cụ
thể
hóa
đầu
tiên
Ngày
6/12,
Ngân
hàng
Nhà
nước
chính
thức
công
bố
kế
hoạch
hợp
nhất
ba
ngân
hàng
thương
mại
là
SCB,
Ficombank
và
TinNghiaBank.
Lần
đầu
tiên
trong
lịch
sử
thị
trường
đón
nhận
vụ
hợp
nhất
diễn
ra
một
cách
nhanh
chóng
như
vậy.
Đây
cũng
là
sự
cụ
thể
hóa
đầu
tiên
trong
lộ
trình
thực
hiện
tái
cơ
cấu
hệ
thống
ngân
hàng
mà
Trung
ương
Đảng
đề
ra,
cũng
như
Ngân
hàng
Nhà
nước
đã
định
hình
triển
khai.
Về
hình
thức,
sự
kiện
này
cho
thấy
nhà
điều
hành
đang
quyết
tâm
và
nhanh
gọn
trong
việc
củng
cố
lại
hệ
thống.
Còn
thử
thách
và
kết
quả
của
việc
hợp
nhất
vẫn
ở
phía
trước.
Ngày
23/12,
ngân
hàng
hợp
nhất
đã
tiến
hành
đại
hội
cổ
đông;
ngay
sau
đó
Ngân
hàng
Nhà
nước
đã
có
văn
bản
chính
thức
chấp
thuận
về
mặt
pháp
lý
việc
thành
lập
và
hoạt
động
của
ngân
hàng
mới.
Liên
quan
đến
sự
kiện
này,
tái
cấu
trúc
và
sự
lo
ngại
“hiệu
ứng
Tăng
Sâm”
là
dòng
chảy
nổi
bật
trong
hoạt
động
ngân
hàng
2011.
Phía
sau
đó
là
những
đồn
đoán,
là
sự
dịch
chuyển
của
dòng
tiền
gửi,
gắn
với
cơ
chế
trần
lãi
suất,
gây
những
xáo
trộn
nhất
định
trên
thị
trường.
7.
Bất
ổn
thị
trường
liên
ngân
hàng
Tháng
10/2011,
thị
trường
liên
ngân
hàng
bước
vào
những
bất
ổn
khi
lần
đầu
tiên
trong
lịch
sử
xuất
hiện
hiện
tượng
áp
cơ
chế
bảo
đảm,
thế
chấp
trong
giao
dịch
giữa
các
thành
viên.
Cơ
chế
này
lập
tức
tạo
một
không
khí
ngột
ngạt
và
ảnh
hưởng
tới
sự
điều
hòa
các
dòng
vốn
trong
hệ
thống,
căng
thẳng
thanh
khoản
tại
một
số
thành
viên.
Quan
trọng
hơn,
giá
trị
lớn
nhất
của
thị
trường
này
là
niềm
đã
bị
đánh
mất
khi
các
thành
viên
nghi
ngờ
lẫn
nhau,
khi
phát
sinh
những
món
nợ
đồng
lần…
Đi
cùng
với
cơ
chế
đó,
lãi
suất
huy
động
vàng
và
ngoại
tệ
“lạ”
biến
động
và
tăng
nhanh,
khi
một
số
thành
viên
cần
có
tài
sản
để
thế
chấp
gọi
vốn
trên
thị
trường
liên
ngân
hàng.
Đáng
chú
ý
là
cho
đến
nay
vẫn
chưa
có
một
sự
can
thiệp
triệt
để
nào
từ
Ngân
hàng
Nhà
nước
được
công
bố,
để
trả
lại
môi
trường
vốn
có
cho
thị
trường
này,
cũng
như
vai
trò
của
nó
trong
điều
hòa
các
dòng
vốn.
8.
Xuất
hiện
“yếu
tố
nhóm”
trong
hệ
thống
Tại
phiên
chất
vấn
Thống
đốc
Ngân
hàng
Nhà
nước
trước
Quốc
hội
ngày
24/11,
có
một
câu
hỏi
được
đặt
ra:
liệu
có
“lợi
ích
nhóm”
trong
những
điều
chỉnh
chính
sách
tiền
tệ
gần
đây?
Câu
hỏi
này
xuất
phát
từ
“yếu
tố
nhóm”
định
hình
trong
chủ
trương
của
Ngân
hàng
Nhà
nước.
Cụ
thể,
ngay
sau
khi
tiếp
nhận
vị
trí
lãnh
đạo
cao
nhất
ngành,
bước
đi
đầu
tiên
của
Thống
đốc
Nguyễn
Văn
Bình
là
thành
lập
nhóm
12
ngân
hàng
lớn
với
tên
gọi
được
nhắc
đến
là
“G12”,
gồm
những
thành
viên
lớn
và
mạnh
trong
hệ
thống.
Sự
kiện
này
lập
tức
tạo
sự
phân
biệt
trong
hệ
thống,
cả
trong
tâm
lý
khách
hàng
và
người
gửi
tiền.
Có
ngân
hàng
trong
nhóm
đã
quảng
bá
rộng
rãi
thông
điệp
“G12”
như
một
“chứng
chỉ”
trong
bối
cảnh
tâm
lý
người
dân
ít
nhiều
xáo
trộn
từ
thông
tin
tái
cấu
trúc
hệ
thống…
Ngoài
ra,
năm
2011
cũng
đón
nhận
sự
trở
lại
của
vàng
tài
khoản,
mở
riêng
cho
5
ngân
hàng
thương
mại
lớn
trong
giải
pháp
bình
ổn
thị
trường
vàng
mà
Ngân
hàng
Nhà
nước
triển
khai.
Nhóm
nay
cũng
được
gắn
với
tên
gọi
“G5”
trong
các
thông
tin
bình
luận
liên
quan.
9.
Thử
thách
lớn
trong
bình
ổn
thị
trường
vàng
Một
năm
thị
trường
vàng
có
quá
nhiều
biến
động,
kịch
tính
và
cả
những
bất
cập.
Lần
đầu
tiên
trong
lịch
sử
giá
vàng
trong
nước
có
thời
điểm
vượt
trên
giá
thế
giới
tới
4
triệu
đồng/lượng
và
duy
trì
trạng
thái
vượt
trội
đó
kéo
dài,
thách
thức
các
nỗ
lực
rút
ngắn
của
Ngân
hàng
Nhà
nước.
Như
ở
sự
kiện
trên,
việc
mở
lại
vàng
tài
khoản
ở
nước
ngoài
cho
5
ngân
hàng
lớn,
phối
hợp
cùng
SJC
là
giải
pháp
trọng
tâm
mà
Ngân
hàng
Nhà
nước
đưa
ra.
Dù
“liều
thuốc”
cấp
hạn
mức
nhập
vàng
đã
không
còn
được
dùng
đến,
áp
lực
đối
với
tỷ
giá
cũng
được
xử
lý
đáng
kể,
nhưng
chênh
lệch
giữa
giá
vàng
trong
nước
với
thế
giới
vẫn
là
bài
toán
chuyển
giao
cho
năm
2012.
Đáng
chú
ý
là
trong
năm
2011,
dự
thảo
nghị
định
quản
lý
kinh
doanh
vàng
trở
thành
một
câu
chuyện
dài,
gắn
với
nhiều
biến
động
và
phản
ứng
trên
thị
trường.
Liên
quan,
ngày
25/11,
trả
lời
trước
Quốc
hội,
Thống
đốc
Nguyễn
Văn
Bình
chính
thức
tuyên
bố
vàng
SJC
trở
thành
vàng
của
Ngân
hàng
Nhà
nước,
trong
lộ
trình
tăng
cương
quản
lý
thị
trường
rất
nhạy
cảm
này.
10.
Câu
hỏi:
VND
đã
đi
đâu?
Cuối
cùng,
điểm
nổi
bật
mà
VnEconomy
đặt
ra
để
điểm
lại
hoạt
động
của
hệ
thống
ngân
hàng
năm
2011
là
câu
hỏi:
VND
đã
đi
đâu?
Bất
động
sản
ồ
ạt
giảm
giá,
giá
cổ
phiếu
trên
sàn
chứng
khoán
được
cho
là
rẻ
rúng,
giới
hạn
tăng
trưởng
tín
dụng
tại
nhiều
nhà
băng
đã
hết
năm
vẫn
còn
khá
lớn…
Nhưng
vấn
đề
là
tiền
và
tiền
mặt.
Trong
khi
đó,
liên
tiếp
các
tháng
9,
10
huy
động
vốn
của
hệ
thống
ngân
hàng
sụt
giảm;
riêng
tháng
11,
12
và
báo
cáo
chung
cả
năm
đến
nay
vẫn
chưa
thấy
dữ
liệu
được
công
bố.
Trả
lời
câu
hỏi
trên
là
một
vấn
đề
lớn.
Yếu
tố
tham
khảo
là:
tăng
trưởng
tổng
phương
tiện
thanh
toán
và
tín
dụng
năm
nay
tạo
đáy
như
vậy;
nhập
siêu
vẫn
lớn
với
9,5
tỷ
USD
mà
tính
chuyển
đổi
của
VND
rất
hạn
chế
để
có
thể
chảy
trực
tiếp
sang
nước
bạn;
lượng
vàng
nhập
khẩu
qua
các
đợt
bình
ổn
năm
2011
cũng
ngốn
một
lượng
tiền
lớn
đang
tích
tụ
và
trú
ẩn
trong
dân
cư
thay
vì
đi
vào
sản
xuất
kinh
doanh…
Và
cùng
với
câu
hỏi
trên,
một
câu
hỏi
liên
đới
là
“Bao
giờ
lãi
suất
VND
mới
thực
sự
giảm?”
-
câu
hỏi
được
chuyển
tiếp
cho
năm
2012,
dù
trong
năm
2011
chủ
trương
giảm
lãi
suất
cho
vay
xuống
17
-
19%
đã
là
một
câu
chuyện
dài.