Các
chuyên
gia
cảnh
báo
việc
phụ
thuộc
vào
thị
trường
này
là
mối
hiểm
họa
mà
nhiều
ngành
nông
sản
khác
của
VN
đã
phải
gánh
chịu
như
cao
su,
dưa
hấu,
thanh
long...
Gần
một
tháng
trước,
ông
T.
-
giám
đốc
một
doanh
nghiệp
xuất
khẩu
gạo
tại
An
Giang
-
khá
lo
lắng
trước
thông
tin
Trung
Quốc
cấm
nhập
khẩu
gạo
theo
đường
tiểu
ngạch.
Tuy
nhiên,
qua
xác
minh
nước
này
chỉ
siết
chặt
nhập
khẩu
chứ
không
ngưng,
do
đó
công
việc
xuất
khẩu
vẫn
diễn
ra
dù
khó
hơn
trước.
Bất
chấp
rủi
ro
Thiếu
thương
hiệu
gạo
Theo
TS
Hồ
Cao
Việt,
thời
gian
qua
Bộ
Nông
nghiệp
và
phát
triển
nông
thôn
mới
chỉ
tập
trung
vào
khâu
sản
xuất
giống
và
kỹ
thuật
sản
xuất,
trong
khi
Bộ
Công
thương
hầu
như
không
có
chương
trình
gì
để
xúc
tiến
thương
mại
gạo.
Do
đó
gạo
VN
làm
ra
chủ
yếu
bán
theo
chủng
loại
mà
không
có
thương
hiệu.
Các
công
ty
của
Mỹ
và
châu
Âu
mua
hàng
trăm
ngàn
tấn
gạo
VN
về
đóng
gói
bán
khắp
thế
giới
với
giá
cao
nhưng
người
tiêu
dùng
không
biết
họ
đang
ăn
gạo
của
VN. |
Theo
vị
doanh
nhân
này,
doanh
nghiệp
Trung
Quốc
muốn
nhập
khẩu
chính
ngạch
phải
đóng
phí
quota
80
USD/tấn
cộng
với
thuế
giá
trị
gia
tăng
và
thuế
nhập
khẩu.
Chẳng
hạn
gạo
5%
tấm
VN
đang
bán
là
460
USD/tấn,
nếu
nhập
khẩu
đường
chính
thức
thì
thuế
cộng
với
tiền
quota,
giá
về
đến
Trung
Quốc
sẽ
đội
lên
thêm
160
USD/tấn
chưa
kể
tiền
vận
chuyển,
kho
bãi.
Do
đó,
các
thương
nhân
Trung
Quốc
vẫn
chọn
cách
mua
tiểu
ngạch
vì
chênh
lệch
giá.
Theo
giới
kinh
doanh
thì
giá
gạo
nội
địa
của
Trung
Quốc
không
ngừng
tăng
những
năm
qua
đã
thúc
đẩy
các
doanh
nhân
nước
này
tìm
đến
VN
bằng
mua
bán
cả
chính
ngạch
lẫn
tiểu
ngạch.
Ngược
lại,
xuất
khẩu
gạo
của
VN
trong
3-4
năm
trở
lại
đây
gặp
nhiều
khó
khăn
do
các
thị
trường
truyền
thống
như
Philippines,
Indonesia,
Malaysia,
Bangladesh...
giảm
lượng
mua
hoặc
thay
đổi
cách
mua
hàng.
Lượng
hợp
đồng
cấp
chính
phủ
từ
mức
trên
60%
tổng
lượng
gạo
xuất
khẩu
giảm
xuống
chỉ
còn
20%
trong
khi
việc
đa
dạng
hóa
thị
trường
chưa
được
các
doanh
nghiệp
đầu
tư
đúng
mức.
Bước
sang
năm
2012,
ngành
lúa
gạo
VN
đứng
trước
nguy
cơ
dư
thừa,
giá
lúa
gạo
giảm
mạnh
nên
các
doanh
nghiệp
trong
nước
đã
đổ
xô
xuất
khẩu
sang
Trung
Quốc.
Theo
Hiệp
hội
Lương
thực
VN
(VFA),
xuất
khẩu
gạo
VN
sang
Trung
Quốc
tăng
đột
biến
từ
mức
250.000
tấn
năm
2011
lên
trên
3
triệu
tấn
vào
năm
2012-2013.
Riêng
bảy
tháng
đầu
năm
nay,
Trung
Quốc
vẫn
là
thị
trường
nhập
khẩu
gạo
lớn
nhất
của
VN
với
40%
tổng
lượng
gạo
xuất
khẩu.
Dù
là
thị
trường
dễ
tính
vì
chủ
yếu
mua
gạo
cấp
thấp
nhưng
theo
các
doanh
nghiệp
xuất
khẩu,
thị
trường
này
đặc
biệt
rủi
ro
ở
khâu
thanh
toán.
Các
thương
nhân
Trung
Quốc
đa
số
thanh
toán
theo
hình
thức
trả
sau
(trả
trước
khoảng
20%
giá
trị
hợp
đồng
và
trả
nốt
khi
nhận
được
hàng),
do
đó
nếu
họ
gặp
rủi
ro
là
mất
khả
năng
thanh
toán
với
đối
tác
VN.
“Mua
bán
tiểu
ngạch
là
buôn
lậu
ở
Trung
Quốc
nên
có
nguy
cơ
bị
hải
quan
và
quản
lý
thị
trường
bắt
cả
lô
hàng.
Khi
đó
thì
đối
tác
Trung
Quốc
không
có
tiền
trả
cho
doanh
nhân
VN”
-
ông
T.
cho
hay.
Theo
TS
Hồ
Cao
Việt
-
Viện
Khoa
học
kỹ
thuật
nông
nghiệp
miền
Nam,
Trung
Quốc
chủ
yếu
mua
gạo
chất
lượng
thấp
qua
đường
tiểu
ngạch
nên
đầy
rủi
ro.
Cách
mua
bán
này
cũng
không
tạo
áp
lực
cho
các
doanh
nghiệp
trong
nước
phải
đầu
tư
xây
dựng
thương
hiệu
và
tạo
ra
giá
trị
gia
tăng
cho
hạt
gạo.
“Khi
đó,
chỉ
cần
Trung
Quốc
ngưng
mua
là
gạo
VN
không
thể
đưa
đi
đâu
được
như
các
loại
nông
sản
khác”
-
ông
Việt
cảnh
báo.
Tỉ
trọng
xuất
khẩu
gạo
Việt
Nam
sang
Trung
Quốc
tăng
mạnh
qua
các
năm
-
Nguồn:
VFA
Nên
đa
dạng
thị
trường
Ông
Hồ
Cao
Việt
cho
biết
việc
mua
bán
tiểu
ngạch
với
Trung
Quốc
gây
rất
nhiều
xáo
trộn
thị
trường
gạo
nói
riêng
và
thị
trường
nông
sản
VN
nói
chung.
Khi
cần
hàng
thì
họ
sẵn
sàng
đặt
mua
lúa
gạo
của
doanh
nghiệp
trong
nước
với
giá
cao
hơn
100-200
đồng/kg
làm
mặt
bằng
giá
tăng
lên,
nhưng
chỉ
vài
tuần
sau
họ
ngưng
mua
và
giá
cả
lại
giảm
mạnh.
“VN
nên
cấm
xuất
khẩu
tiểu
ngạch
sang
Trung
Quốc
để
tập
trung
nâng
cao
chất
lượng
và
xây
dựng
thương
hiệu
gạo
nhằm
đa
dạng
hóa
thị
trường,
nâng
cao
giá
trị
của
hạt
gạo”
-
ông
Việt
đề
xuất.
Một
nghiên
cứu
do
Trung
tâm
nghiên
cứu
chính
sách
(VEPR)
tiến
hành
trong
tháng
7
vừa
qua
cho
thấy
sau
khi
nghị
định
109
về
kinh
doanh
và
xuất
khẩu
gạo
áp
dụng
từ
đầu
năm
2011,
số
lượng
công
ty
xuất
khẩu
gạo
đã
giảm,
còn
lại
chủ
yếu
là
các
công
ty
có
vốn
lớn.
Các
doanh
nghiệp
không
đủ
điều
kiện
xuất
khẩu
trở
thành
các
đơn
vị
cung
ứng,
hoặc
tìm
cách
xuất
khẩu
tiểu
ngạch
sang
Trung
Quốc.
Ông
Nguyễn
Đức
Thành,
giám
đốc
VEPR,
cho
biết
trong
bối
cảnh
các
hợp
đồng
chính
phủ
ngày
càng
chiếm
tỉ
trọng
nhỏ
trong
tổng
lượng
xuất
khẩu,
các
thị
trường
truyền
thống
như
Philippines,
Indonesia,
Malaysia
bất
ổn...
VN
nên
thay
đổi
chính
sách
phát
triển
ngành
lúa
gạo
từ
đảm
bảo
an
ninh
lương
thực
sang
nâng
cao
hiệu
quả.
Theo
đó,
VN
nên
giảm
bớt
lượng
cung
lúa
gạo
thông
qua
việc
giảm
số
vụ
canh
tác
và
tập
trung
vào
các
giống
có
chất
lượng
cao,
thuần
chủng.
“Cần
thúc
đẩy
thị
trường
xuất
khẩu
của
tư
nhân
với
các
hợp
đồng
xuất
khẩu
ổn
định,
đòi
hỏi
chất
lượng
cao
về
sản
phẩm.
VN
chưa
hình
thành
được
các
doanh
nghiệp
tư
nhân
lớn
xuất
khẩu
gạo
là
do
các
doanh
nghiệp
nhà
nước
vẫn
chiếm
vị
trí
quan
trọng
trong
việc
tiếp
nhận
các
hợp
đồng
xuất
khẩu
gạo
và
các
điều
kiện
đầu
tư
vào
kho
chứa”
-
ông
Thành
cho
biết.
Theo
Trần
Mạnh