Nếu
đánh
giá
trên
những
con
số
báo
cáo
tổng
kết
chung
khoảng
15
năm
trở
lại
đây,
thì
công
tác
giảm
nghèo
là
"ấn
tượng”
-
Ước
tính
đã
có
khoảng
28
triệu
người
thoát
nghèo.
Thế
nhưng,
nếu
đánh
giá
một
cách
độc
lập,
thì
thấy
tốc
độ
giảm
nghèo
của
nước
ta
đang
bị
chậm
lại.
Đáng
lo
ngại
hơn
là
có
bộ
phận
người
nghèo
đang
trở
thành
"nghèo
kinh
niên”,
đặc
biệt
là
đồng
bào
các
dân
tộc
thiểu
số;
đồng
thời,
đã
xuất
hiện
nhiều
dạng
nghèo
mới
gắn
với
quá
trình
đô
thị
hóa
và
di
cư.
Tỷ
lệ
cận
nghèo
có
xu
hướng
tăng
Tại
Hội
nghị
Các
đối
tác
đầu
tư
nước
ngoài
CG
2011
diễn
ra
đầu
tháng,
các
đối
tác
phát
triển
của
Việt
Nam
đã
bày
tỏ
quan
ngại
khi
có
gần
một
nửa
trong
số
những
đối
tượng
được
coi
là
"nghèo
kinh
niên”
(47,3%)
của
Việt
Nam
là
những
nhóm
dân
tộc
thiểu
số,
và
con
số
này
đang
tăng:
63%
những
đối
tượng
nghèo
nhất
là
đồng
bào
dân
tộc
thiểu
số.
Tuyên
bố
về
giảm
nghèo
tại
Việt
Nam
của
Hội
nghị
này
cũng
cho
thấy,
mặc
dù
từ
nhiều
năm
trước,
Chính
phủ
đã
đầu
tư
nguồn
tài
chính
đáng
kể
vào
những
chương
trình
mục
tiêu
cho
các
vùng
nghèo,
vùng
núi
và
vùng
đồng
bào
dân
tộc
thiểu
số,
nhưng
dễ
nhận
thấy
là
các
chương
trình
giảm
nghèo
tại
đây
không
được
thành
công
như
đối
với
các
nơi,
vùng
khác.
Không
những
thế,
theo
nhận
định
của
cơ
quan
Liên
Hợp
Quốc
tại
Việt
Nam,
thành
công
của
Việt
Nam
trong
công
tác
giảm
nghèo
có
khả
năng
sẽ
gặp
phải
nhiều
thách
thức
mới.
Còn
Viện
Khoa
học
xã
hội
Việt
Nam
nhận
định,
tốc
độ
giảm
nghèo
đang
có
xu
hướng
chậm
lại,
trong
khi
đó
tỷ
lệ
hộ
cận
nghèo
lại
có
xu
hướng
gia
tăng.
Đặc
biệt
gần
đây
đã
xuất
hiện
dạng
nghèo
mới
gắn
với
quá
trình
đô
thị
hóa
và
di
cư
từ
nông
thôn
ra
thành
thị.
Lâu
nay
chúng
ta
vẫn
cho
rằng,
cái
nghèo
tập
trung
chủ
yếu
ở
khu
vực
nông
thôn,
nhưng
những
năm
qua,
do
quá
trình
đô
thị
hóa
diễn
ra
quá
nhanh,
sự
di
cư
của
người
dân
từ
nông
thôn
ra
các
khu
đô
thị
cũng
ngày
một
lớn,
dẫn
đến
thực
tế
là
đã
tạo
ra
các
dạng
nghèo
mới,
những
dạng
nghèo
này
khó
phân
biệt
hơn
và
có
thể
bị
bỏ
sót
từ
các
cuộc
thống
kê
về
nghèo.
Những
đối
tượng
này
phải
đương
đầu
với
những
khó
khăn
nghiêm
trọng,
bao
gồm
tiếp
cận
với
nhà
ở,
vệ
sinh,
dịch
vụ
và
hội
nhập
xã
hội.
Những
điều
này
khiến
chúng
ta
đặt
câu
hỏi
ngược
lại
là
phải
chăng
các
công
cụ
và
cơ
chế
của
Nhà
nước
được
áp
dụng
từ
trước
đến
nay
cho
mục
đích
giảm
nghèo
đã
tới
điểm
giới
hạn?
Rõ
ràng,
đã
đến
lúc
cần
có
các
biện
pháp
tiếp
cận
sáng
tạo
hơn,
hiệu
quả
hơn
-
Những
khó
khăn
mà
cộng
đồng
các
dân
tộc
thiểu
số
đang
phải
đương
đầu
cần
được
hiểu
thấu
đáo
hơn,
từ
đó
xây
dựng
các
giải
pháp
phù
hợp
và
sáng
tạo.
Ví
dụ,
các
yếu
tố
xã
hội
học
và
văn
hóa
cần
được
xem
xét
kỹ
lưỡng.
Đặc
biệt
là
những
rào
cản
đối
với
quá
trình
phát
triển
phải
được
chính
các
cộng
đồng
dân
tộc
thiểu
số
nhận
thức
rõ
hơn,
không
chỉ
qua
cái
nhìn
của
người
ngoài
cuộc.
Những
cộng
đồng
này
phải
tham
gia
không
chỉ
như
những
người
hưởng
lợi
một
cách
thụ
động,
mà
là
những
nhân
tố
cho
sự
phát
triển
của
chính
họ.
Các
đổi
mới
có
thể
là
giáo
dục
song
ngữ
và
cung
cấp
tài
chính
trực
tiếp
cho
các
cộng
đồng
địa
phương...
Các
biện
pháp
giảm
nghèo
Để
giải
quyết
hiệu
quả
"nghèo
kinh
niên”
và
nghèo
của
đồng
bào
các
dân
tộc
thiểu
số,
theo
các
nhà
tài
trợ
quốc
tế,
cần
một
nỗ
lực
dài
hạn.
Đại
diện
Ủy
ban
châu
Âu
tại
Việt
Nam
nhận
định:
Thực
tế
đang
tồn
tại
khoảng
cách
rất
lớn
về
thu
nhập,
chất
lượng
đời
sống
của
người
dân
giữa
khu
vực
nông
thôn
và
thành
thị,
đặc
biệt
là
giữa
người
dân
vùng
duyên
hải
và
vùng
sâu
trong
đất
liền.
Ở
thời
điểm
kinh
tế
trong
và
ngoài
nước
khó
khăn,
có
nhiều
biến
động
như
hiện
nay,
để
tiếp
tục
mục
tiêu
nâng
cao
chất
lượng
đời
sống,
rút
ngắn
khoảng
cách
thu
nhập
giữa
các
vùng,
miền,
Chính
phủ
phải
đưa
ra
được
chính
sách
bảo
hiểm,
an
sinh
xã
hội
thật
sự
tốt,
triển
khai
thực
hiện
đồng
bộ
và
có
sự
phối
kết
hợp
nhịp
nhàng,
xuyên
suốt,
triệt
để
thay
vì
những
biện
pháp
rời
rạc
và
mang
tính
tạm
thời.
Đối
với
nhóm
người
nghèo
gắn
với
quá
trình
đô
thị
hóa
và
di
cư
từ
nông
thôn
ra
thành
thị,
thực
tế
họ
vẫn
chưa
được
đưa
vào
các
cuộc
khảo
sát
trên
phạm
vi
cả
nước,
do
chuẩn
nghèo
được
sử
dụng
hiện
nay
chưa
được
điều
chỉnh
phù
hợp
với
tỷ
lệ
lạm
phát,
và
những
người
di
cư
ngắn
hạn
không
có
đăng
ký
tạm
trú
không
được
coi
là
đối
tượng
khảo
sát.
Đại
diện
Nhóm
4
nước
phương
Tây
gồm
Canada,
New
Zealand,
Na
Uy
và
Thụy
Sĩ
đề
nghị
Việt
Nam
cần
nỗ
lực
hơn
nữa
trong
công
tác
xóa
đói
giảm
nghèo,
đặc
biệt
là
đối
với
nhóm
nghèo
riêng
lẻ
và
đáp
ứng
nhu
cầu
của
nhóm
dễ
bị
tổn
thương.
Chính
phủ
cũng
cần
có
đánh
giá
đúng
mực
sự
đóng
góp
về
mặt
kinh
tế
của
nhóm
người
di
cư
từ
nông
thôn
ra
thành
thị
đối
với
sự
phát
triển
kinh
tế,
trên
cơ
sở
đó
có
chính
sách
bảo
vệ
quyền
lợi
chính
đáng
của
họ.
Ở
thời
điểm
hiện
tại,
do
có
nhiều
khó
khăn,
rào
cản
khiến
nhóm
người
tạm
trú
ở
khu
vực
thành
thị
này
không
được
tiếp
cận
đầy
đủ
với
các
dịch
vụ
xã
hội
chất
lượng.
Đồng
tình
với
quan
điểm
này,
nhiều
đối
tác
tài
trợ
cho
rằng,
Việt
Nam
cần
bảo
đảm:
Ở
thành
thị
hay
nông
thôn,
tất
cả
người
nghèo
phải
được
tiếp
cận
đầy
đủ
các
dịch
vụ
xã
hội
cơ
bản
và
phù
hợp
với
khả
năng
bao
gồm
cả
y
tế
và
giáo
dục.
Ông
David
Shear
-
Đại
sứ
Hoa
Kỳ
tại
Việt
Nam
nhận
định:
Kinh
tế
Việt
Nam
có
tốc
độ
phát
triển
tốt,
nhưng
cùng
đó
sự
bất
bình
đẳng
trong
thu
nhập
giữa
các
nhóm
trong
xã
hội,
mức
độ
tiếp
cận
với
các
dịch
vụ
chất
lượng
trong
xã
hội
Việt
Nam
lại
là
vấn
đề
đáng
lo
ngại.
Chính
phủ
Việt
Nam
cần
có
biện
pháp
để
chất
lượng
của
các
dịch
vụ
cũng
như
khả
năng
để
người
dân
tiếp
cận
được
các
dịch
vụ
này
tăng
trưởng
cùng
nhịp
với
tốc
độ
tăng
trưởng
kinh
tế.
Hiện
tại
nhịp
tăng
trưởng
này
đang
có
sự
chênh
nhau.
Bà
Pratibha
Mehta
–
Điều
phối
viên
thường
trú
của
Liên
Hợp
Quốc
tại
Việt
Nam
và
nhiều
đối
tác
phát
triển
khác
khuyến
nghị,
Việt
Nam
nên
áp
dụng
các
phương
thức
đo
lường
nghèo
đa
chuẩn,
đồng
thời
điều
chỉnh
chuẩn
nghèo
chính
thức
theo
từng
năm
để
làm
cơ
sở
cho
xác
định
đối
tượng
trợ
cấp
xã
hội.
Chính
sách
xã
hội
hóa
hiện
tại
của
Chính
phủ
cũng
cần
được
rà
soát
lại,
việc
thực
thi
cần
có
sự
tham
gia
nhiều
hơn
của
các
thành
phần
ngoài
nhà
nước
và
phi
lợi
nhuận
trong
việc
cung
cấp
dịch
vụ.
Chính
phủ
có
thể
đóng
một
vai
trò
lớn
hơn
trong
việc
điều
tiết,
giám
sát
và
đảm
bảo
chất
lượng
và
thu
hút
sự
tham
gia
của
công
dân
vào
việc
giám
sát
các
dịch
vụ
xã
hội.