Để
việc
hạ
lãi
suất
được
bền
vững
thì
phải
xuất
phát
từ
việc
hạ
kỳ
vọng
lạm
phát
chứ
không
phải
là
đi
ngược
lại
quy
trình
này.
Và
việc
hạ
kỳ
vọng
lạm
phát,
trong
ngắn
hạn,
phải
xuất
phát
từ
việc
hạ
giá
những
chi
tiêu
cơ
bản
trong
nền
kinh
tế
như
giá
xăng,
điện,
giáo
dục,
y
tế
và
lương
thực.
Giảm
lãi
suất
nhưng
đừng
để
trở
thành
trợ
giá
cho
nhóm
lợi
ích
trung
gian
Để
việc
hạ
lãi
suất
được
bền
vững
thì
cần
phải
đi
tìm
nguyên
nhân
lãi
suất
cao.
Từ
những
gì
diễn
ra,
ta
thấy
có
hai
nguyên
nhân
cơ
bản
làm
cho
lãi
suất
cao
thời
gian
qua
là
(1)
các
ngân
hàng
phải
đẩy
lãi
suất
huy
động
lên
cao
do
đó
góp
phần
đẩy
mặt
bằng
lãi
suất
cho
vay;
(2)
lãi
suất
huy
động
bị
đẩy
lên
cao
là
do
mặt
bằng
lạm
phát
cao
và
kỳ
vọng
lạm
phát
tương
lai
vẫn
còn
cao,
cộng
với
tỷ
suất
sinh
lợi
cao
của
những
công
cụ
đầu
tư
khác
như
vàng,
buộc
người
dân
đòi
hỏi
một
mức
sinh
lợi
lớn
thì
mới
chịu
gửi
tiền
vào
ngân
hàng.
Như
vậy,
giảm
lãi
suất
phải
bắt
đầu
từ
việc
hạ
mặt
bằng
lạm
phát
kỳ
vọng.
Nói
cách
khác
là
làm
cho
người
dân
tin
tưởng
các
biện
pháp
chống
lạm
phát
của
Chính
phủ
sẽ
phát
huy
hiệu
quả
và
kéo
lạm
phát
về
dưới
một
con
số,
tốt
nhất
là
vào
năm
2012.
Cho
đến
nay,
dù
đã
thực
hiện
kiểm
soát
đầu
tư
công
và
thắt
chặt
tiền
tệ,
giá
cả
trong
nền
kinh
tế
vẫn
bị
đội
lên,
một
phần
do
việc
kiểm
soát
tài
khóa
chưa
thật
chặt
chẽ,
bên
cạnh
đó
còn
là
do
một
số
nhóm
lợi
ích
kiểm
soát
các
kênh
phân
phối
của
các
mặt
hàng
nông
sản,
xăng
dầu,
điện,
giáo
dục,
y
tế...
Điều
này
dẫn
đến
mặt
bằng
giá
cả
bán
lẻ
hiện
tại
bị
đội
lên
nhiều
so
với
giá
bán
sỉ
và
mặt
bằng
chi
phí
chung
trong
xã
hội
ở
mức
cao.
Nếu
nói
rằng
hiện
nay
nhiều
doanh
nghiệp
trong
nền
kinh
tế
khó
khăn
và
thua
lỗ
do
ảnh
hưởng
kinh
tế
toàn
cầu
thì
không
lý
do
gì
chấp
nhận
một
nhóm
lợi
ích
có
tỷ
suất
sinh
lợi
cao
nhờ
nắm
giữ
những
mắt
xích
quan
trọng
trong
các
kênh
phân
phối
và
nắm
vai
trò
gần
như
độc
quyền
ở
một
số
lĩnh
vực,
và
thậm
chí
nhóm
lợi
ích
này
còn
thực
hiện
việc
công
bố
lỗ
trong
khi
họ
thật
sự
là
lời.
Do
vậy,
nếu
nhóm
lợi
ích
này
chấp
nhận
chia
sẻ
gánh
nặng
về
giá
cả
trong
nền
kinh
tế
thì
có
thể
giúp
mặt
bằng
giá
cả
được
kiểm
soát
tốt
hơn.
Chỉ
cần
khi
giá
một
số
mặt
hàng
thiết
yếu
được
kiềm
chế,
kỳ
vọng
lạm
phát
của
người
dân
nhiều
khả
năng
sẽ
giảm
đi
và
do
đó
giúp
ích
nhiều
cho
việc
hạ
lãi
suất
được
bền
vững.
Có
ý
kiến
cho
rằng
giảm
lãi
suất
trước
mới
làm
giảm
lạm
phát.
Ý
kiến
này
dựa
trên
giả
định
lạm
phát
hiện
tại
là
do
chi
phí
đẩy.
Theo
đó,
doanh
nghiệp
có
thể
đẩy
được
phần
lớn
chi
phí
tăng
thêm
vào
giá
bán
cho
người
tiêu
dùng
gánh
chịu.
Nhưng
điều
đó
chỉ
đúng
nếu
nền
kinh
tế
đang
khan
hiếm
hàng
hóa
thì
quyền
lực
làm
giá
(bargaining
power)
của
doanh
nghiệp
mới
thật
sự
có
tác
động
lớn.
Nhưng
tình
hình
tiêu
thụ
hàng
hóa
trên
thị
trường
hiện
tại
và
tình
trạng
hàng
tồn
kho
của
một
số
doanh
nghiệp
cho
thấy
một
thực
tế
ngược
lại
(xem
số
liệu
cụ
thể
trong
bài
“Điểm
sáng
đang
mờ
dần”
tr.
44-45
số
báo
này).
Quyền
lực
làm
giá
của
các
doanh
nghiệp
sản
xuất
không
lớn,
đồng
thời
với
sự
tồn
tại
của
những
nhóm
lợi
ích
có
khả
năng
chi
phối
khâu
phân
phối
trung
gian
và
“làm
giá”
mạnh
với
những
sản
phẩm
cuối
cùng
đến
tay
người
tiêu
dùng
khiến
cho
lập
luận
hạ
lãi
suất
có
thể
giúp
hạ
lạm
phát
cần
phải
có
thêm
nhiều
chứng
cứ
thực
tiễn
đáng
tin
cậy.
Cho
dù
chi
phí
lãi
vay
của
doanh
nghiệp
sản
xuất
hạ
khiến
họ
có
thể
hạ
giá
bán
ra
thì
thông
qua
kênh
phân
phối
nó
vẫn
có
thể
được
đẩy
lên
thêm
để
khi
đến
tay
người
tiêu
dùng
giá
cả
vẫn
như
cũ
nhưng
người
đóng
vai
trò
trung
gian
hưởng
lợi
thêm
một
phần
nữa.
Thực
tế
giá
hàng
hóa
khi
đến
tay
người
tiêu
dùng
đã
qua
một
hệ
thống
kênh
phân
phối
chằng
chịt
trong
nền
kinh
tế,
nên
có
thể
biến
việc
hạ
lãi
suất
thành
việc
trợ
giá
thêm
cho
nhóm
lợi
ích
trung
gian
phân
phối
trong
nền
kinh
tế
chứ
không
phải
là
chống
lạm
phát.
Vì
vậy,
hạ
mặt
bằng
lãi
suất
và
tiếp
tục
thực
hiện
phân
phối
tín
dụng
cho
doanh
nghiệp
cần
tiền
để
đảm
bảo
duy
trì
sản
xuất
và
đảm
bảo
tăng
trưởng,
tránh
vỡ
nợ
và
thất
nghiệp
là
hợp
lý,
nhất
là
trong
bối
cảnh
khả
năng
tăng
tín
dụng
vẫn
còn
đó
(mức
tăng
tín
dụng
hiện
tại
trong
hệ
thống
vẫn
dưới
mục
tiêu
20%
đề
ra
cho
cả
năm).
Tuy
nhiên,
không
phải
muốn
hạ
mặt
bằng
lãi
suất
một
cách
bền
vững
là
có
thể
làm
được
nếu
lạm
phát
tiếp
tục
cao.
Sử
dụng
công
cụ
bơm
thanh
khoản,
tái
cấp
vốn
hay
các
biện
pháp
đồng
thuận
hạ
lãi
suất
chỉ
có
thể
tác
động
tạm
thời
đến
mặt
bằng
lãi
suất.
Nếu
kỳ
vọng
lạm
phát
và
mặt
bằng
lạm
phát
vẫn
cao
thì
không
thể
hạ
lãi
suất
được
bền
vững.
Và
càng
không
thể
kỳ
vọng
hạ
lãi
suất
sẽ
chặn
được
lạm
phát
trong
bối
cảnh
doanh
nghiệp
sản
xuất
không
có
nhiều
quyền
lực
quyết
định
giá
trong
khi
nhóm
lợi
ích
có
tác
động
lớn
trong
chuỗi
phân
phối
thì
vẫn
có
khả
năng
đẩy
giá
các
mặt
hàng
thiết
yếu
lên
cao.
Lãi
suất
cao
và
tính
bất
định:
cái
nào
quan
trọng
hơn
Một
số
ngân
hàng
cho
rằng
hiện
nay
đang
rất
thừa
tiền
nhưng
do
lãi
suất
cho
vay
quá
cao
nên
doanh
nghiệp
không
thể
chịu
đựng
nổi.
Lập
luận
này
đồng
nghĩa
với
việc
hệ
thống
ngân
hàng
phải
hạ
lãi
suất.
Tuy
nhiên,
liệu
đây
có
phải
là
thông
tin
chính
xác?
Khi
được
ngân
hàng
điều
tra
hoặc
phỏng
vấn,
đương
nhiên
các
doanh
nghiệp
dễ
trả
lời
do
lãi
suất
cao
nên
họ
không
thể
vay
được.
Nhưng
nếu
cách
hỏi
đúng,
doanh
nghiệp
có
thể
trả
lời
rằng
họ
không
vay
nợ
vì
nền
kinh
tế
đang
rơi
vào
tình
trạng
bất
định
quá
lạ
lùng.
Điều
tốt
nhất,
vì
vậy,
nên
là
chờ
đợi
và
trong
thời
gian
này
họ
buộc
lòng
phải
thu
hẹp
sản
xuất.
Hơn
nữa,
truyền
thông
thế
giới
hàng
ngày
hàng
giờ
đều
đề
cập
đến
một
giai
đoạn
mới
của
tăng
trưởng
bền
vững
trong
tương
lai
là
giảm
nợ
(deleveraging),
nên
có
khả
năng
các
doanh
nghiệp
nước
ta
đang
trong
quá
trình
cấu
trúc
lại,
bắt
đầu
từ
việc
tái
cấu
trúc
(giảm)
nợ.
Hiện
cũng
chưa
có
bất
kỳ
một
tổ
chức
độc
lập
đáng
tin
cậy
nào
công
bố
nguyên
nhân
các
doanh
nghiệp
thu
hẹp
sản
xuất
là
do
lãi
suất
quá
cao
hay
do
tính
bất
định
của
nền
kinh
tế
quá
mạnh.
Chẳng
hạn
con
số
30%
doanh
nghiệp
được
cho
là
phá
sản
trong
thời
gian
qua
còn
thiếu
nhiều
thông
tin
quan
trọng
như
tiểu
sử
hoạt
động
của
các
doanh
nghiệp
này
trước
đó
tốt
hay
xấu
(doanh
nghiệp
phá
sản
có
suất
sinh
lợi
bình
quân
20%
trở
lên
khác
với
doanh
nghiệp
thường
xuyên
thua
lỗ);
ngành
nghề
hoạt
động
có
mang
tính
đầu
cơ
hay
không;
số
lượng
công
nhân
(doanh
nghiệp
phá
sản
có
vài
chục
công
nhân
khác
với
vài
ngàn)…
Ai
cũng
biết
dữ
liệu
thống
kê
ở
nước
ta
cứ
u
u
minh
minh
nên
những
thông
tin
thuộc
dạng
như
thế
cần
phải
được
Ngân
hàng
Nhà
nước
xử
lý
thật
thận
trọng
và
khách
quan.
Hãy
nhìn
vào
sự
thất
bại
của
chương
trình
lãi
suất
cực
thấp
mà
Ngân
hàng
Trung
ương
Mỹ
đang
triển
khai
mới
thấy
có
phần
nào
giống
với
các
doanh
nghiệp
nước
ta.
Kinh
tế
Mỹ
hiện
rơi
vào
một
nghịch
lý
oái
oăm,
các
ngân
hàng
và
doanh
nghiệp
đều
đang
ngồi
trên
một
đống
tiền
do
hưởng
lợi
từ
các
chương
trình
kích
thích
kinh
tế
của
ngân
hàng
trung
ương
và
chính
phủ.
Thế
nhưng
các
ngân
hàng
vẫn
không
thể
cho
vay
mặc
dù
lãi
suất
cực
thấp.
Nhiều
nhà
kinh
tế
Mỹ
đã
chỉ
ra
nguyên
nhân
chính
của
tình
trạng
trên
là
do
tính
bất
định
của
nền
kinh
tế
Mỹ
và
kinh
tế
toàn
cầu.
Cho
dù
lãi
suất
bằng
0
cũng
không
ai
dám
vay
mượn.
Sức
cầu
quá
yếu
và
tương
lai
đầy
bất
ổn
của
kinh
tế
thế
giới
khiến
cho
dù
có
bơm
bao
nhiêu
tiền
và
hạ
lãi
suất
xuống
bao
nhiêu
đi
chăng
nữa
cũng
không
thể
nào
mở
rộng
được
sản
xuất.
Những
tranh
luận
trên
cho
thấy
để
việc
hạ
lãi
suất
được
bền
vững
thì
phải
xuất
phát
từ
việc
hạ
kỳ
vọng
lạm
phát
chứ
không
phải
là
đi
ngược
lại
quy
trình
này.
Và
việc
hạ
kỳ
vọng
lạm
phát,
trong
ngắn
hạn,
phải
xuất
phát
từ
việc
hạ
giá
những
chi
tiêu
cơ
bản
trong
nền
kinh
tế
như
giá
xăng,
điện,
giáo
dục,
y
tế
và
lương
thực.
Nếu
được
như
thế,
thì
thông
điệp
của
tân
Thống
đốc
về
việc
có
khả
năng
sắp
tới
Ngân
hàng
Nhà
nước
sẽ
có
những
chính
sách
điều
chuyển
vốn
từ
ngân
hàng
thừa
vốn
sang
ngân
hàng
thiếu
vốn
để
giảm
lãi
suất
mới
là
hướng
đi
thích
hợp
trong
bối
cảnh
hiện
tại.
Trong
bối
cảnh
kinh
tế
khó
khăn,
những
nhóm
lợi
ích
doanh
nghiệp
và
ngân
hàng
cần
hiểu
được
rằng
họ
phải
mất
một
chút
ít
lợi
ích
trước
mắt
để
kéo
nền
kinh
tế
lên
trở
lại
đường
ray.
Suy
cho
cùng
cũng
để
họ
thụ
hưởng
lợi
ích
lâu
dài
hơn.