Trong
một
chuyến
làm
việc
với
chính
phủ
Việt
Nam,
ông
Tomoyuki
Kimura,
Giám
đốc
quốc
gia
Ngân
hàng
phát
triển
châu
Á
ADB
tại
Việt
Nam
đã
trình
bày
các
số
liệu
và
quan
điểm
của
ADB
về
tình
trạng
bất
ổn
kinh
tế
vĩ
mô...
Trong
thời
gian
qua,
đã
có
rất
nhiều
báo
cáo
và
chuyên
gia
tỏ
vẻ
lo
lắng
về
tính
hiệu
quả
của
đầu
tư
tại
Việt
Nam,
xin
ông
cho
biết một
số
nhận
định
của
ADB
về
vấn
đề
này?
Ông
Tomoyuki
Kimura: Tính
hiệu
quả
là
vấn
đề
cần
được
quan
tâm
hàng
đầu
của
bất
kỳ
dự
án
đầu
tư
nào.
Tại
Việt
Nam,
đây
đang
là
vấn
đề
còn
nhiều
điều
cần
phải
làm.
Theo
Báo
cáo
thống
kê
tài
chính
hàng
tháng
của
Quỹ
Tiền
tệ
quốc
tế
IMF,
hệ
số
ICOR
(Incremental
Capital
-
Output
Rate,
có
thể
hiểu
là
số
đồng
vốn
cần
bỏ
ra
để
có
thêm
1
đồng
tăng
trưởng)
của
Việt
Nam
liên
tục
tăng
từ
1991
tới
2010,
cao
hơn
các
nước
khu
vực
như
Trung
Quốc,
Thái
Lan,
Indonesia…
Ngoài
ra,
tổng
vốn
đầu
tư
trên
GDP
lại
tăng,
trong
khi
mức
tăng
trưởng
lại
giảm.
Tỉ
lệ
đầu
tư
trên
GDP
và
tỉ
lệ
tăng
trưởng
GDP
(Nguồn:
General
Statistics
Office)
Thêm
vào
đó,
năng
suất
các
yếu
tố
tổng
hợp
của
Việt
Nam
hiện
nay
là
rất
thấp,
chỉ
khoản
hơn
25%.
Trong
khu
vực,
chỉ
có
Campuchia
và
Lào
có
hệ
số
này
thấp
hơn
Việt
Nam,
còn
Malaysia
và
Trung
Quốc
cao
gấp
đôi
Việt
Nam,
Indonesia
thì
cũng
cao
hơn
1,5
lần.
Các
chỉ
số
trên
cho
thấy,
hiệu
quả
của
đồng
tiền
đầu
tư
tại
Việt
Nam
không
cao,
cộng
với
với
nhiều
rủi
ro
làm
cho
nhà
đầu
tư
trở
nên
do
dự.
Theo
ông,
đâu
là
tác
nhân
của
sự
kém
hiệu
quả
này?
Ông
Tomoyuki
Kimura: Có
nhiều
nguyên
nhân
cho
vấn
đề
này,
theo
tôi,
có
3
nguyên
nhân
chính:
Hiệu
quả
trong
quy
trình
đầu
tư,
Sự
kém
hiệu
quả
của
khu
vực
quốc
doanh
và
Trình
độ
lao
động
chưa
cao.
Trong
quy
trình
đầu
tư,
Việt
Nam
luôn
vướng
phải
những
rào
cản
làm
giảm
lợi
nhuận
và
tính
hấp
dẫn.
Sự
rắc
rối
của
các
quy
định
tại
Việt
Nam
cao
vượt
trội
so
với
các
nước
trong
khu
vực,
gấp
6
lần
so
với
Malaysia
và
Trung
Quốc.
Sự
lãng
phí
trong
khu
vực
Doanh
nghiệp
nhà
nước
cũng
rất
cao,
gấp
4
lần
so
với
Indonesia,
Malaysia
và
3
lần
so
với
Thái
Lan.
Tuy
nhiên,
Việt
Nam
có
hệ
thống
kiểm
toán
tương
đối
tốt
và
tính
minh
bạch
của
chính
sách
cao
hơn
hẳn
Malaysia
và
Trung
Quốc.
Đánh
giá
vào
các
yếu
tố
khác
nhau
trong
vòng
xoay
đầu
tư
(Nguồn:
WEF
Global
Executive
Opinion
Survey,
Institute
for
Strategy
and
Competitiveness,
Harvard
Business
School)
Về
tính
hiệu
quả
của
khu
vực
quốc
doanh,
tỉ
lệ
đóng
góp
vào
GDP
của
DNNN
có
dấu
hiệu
giảm,
nhưng
vẫn
còn
khá
cao,
hơn
35%.
Trong
khi
tỉ
lệ
hồi
vốn
của
DNNN
lại
thấp
hơn
so
với
DNTN
và
tỉ
lệ
nợ
cao
hơn
DNTN.
Dạo
gần
đây
có
các
thông
tin
về
việc
DNNN
báo
lỗ
hàng
nghìn
tỉ
dù
được
hỗ
trợ
rất
nhiều.
Điều
này
làm
ta
phải
xem
lại
tính
hiệu
quả
trong
khu
vực
quốc
doanh.
Trình
độ
lao
động
chưa
cao
cũng
là
một
vấn
đề
về
mặt
cấu
trúc
cần
phải
giải
quyết.
Hiện
nay
số
lượng
người
theo
học
thạc
sĩ
của
Việt
Nam
bằng
một
nửa
so
với
Thái
Lan
và
1/3
so
với
Malaysia.
Tình
hình
thất
nghiệp
đang
tăng
cao
do
số
việc
làm
được
tạo
ra
không
đủ.
Mặt
khác,
các
nhà
đầu
tư
nước
ngoài
cho
biết
họ
khó
tìm
đủ
nhân
công
đáp
ứng
yêu
cầu.
Trình
độ
của
nhân
công
Việt
Nam
cần
phải
được
cải
thiện.
Việt
Nam
có
thể
và
nên
làm
những
gì
để
cải
thiện
tình
hình
trên,
thưa
ông?
Ông
Tomoyuki
Kimura: Về
mặt
quy
trình
đầu
tư,
chúng
ta
phải
nghiên
cứu
thật
kỹ
lại
quá
trình
đấu
thầu.
Cần
có
kế
hoạch
hành
động
về
mặt
chính
sách
rõ
ràng.
Tinh
chỉnh
lại
luật
thu
mua
(đấu
thầu
–
procurement)
để
đưa
ra
khung
quy
định
chung
và
áp
dụng
cho
mọi
đối
tượng
tham
gia
đấu
thầu.
Kết
hợp
với
các
điều
luật
có
sẵn,
chúng
ta
phải
tăng
hiệu
quả
áp
dụng
luật.
Điều
quan
trọng
vẫn
là
việc
giám
sát
và
đánh
giá.
Việt
Nam
hiện
nay
có
rất
nhiều
tài
sản
được
định
giá
sai,
từ
đó
dẫn
đến
lãng
phí
và
thất
thoát.
Về
mặt
đầu
tư
công,
chúng
ta
có
thể
áp
dụng
nhiều
giải
pháp.
Đầu
tiên,
chúng
ta
nên
yêu
cầu
các
DNNN
tuân
theo
khung
quy
định
được
sử
dụng
cho
khu
vực
tư
nhân
và
tăng
áp
lực
cạnh
tranh.
Ngoài
ra,
chúng
ta
cũng
nên
áp
dụng
hệ
thống
quản
lý
dựa
trên
kết
quả,
công
bố
các
bản
thống
kê
phân
tich
về
chi
phí
lời
lỗ.
ADB
có
một
số
kiến
nghị
về
chính
sách,
cụ
thể
như:
(i)
Cần
có
các
ràng
buộc
về
mặt
xã
hội
nhằm
tăng
tính
minh
bạch;
(ii)
Có
kế
hoạch
giảm
trợ
cấp
rõ
ràng
và
hợp
lý
nhằm
tránh
sốc,
đồng
thời
từ
từ
nâng
cao
hiệu
quả
của
khu
vực
quốc
doanh;
(iii)
Tập
trung
vào
việc
tái
cấu
trúc
các
tập
đoàn
quốc
doanh
lớn,
quản
lý
hiệu
quả
các
tổ
chức
tài
chính
dựa
theo
chất
lượng.
Xin
cảm
ơn
ông!