Việt
Nam
bắt
đầu
bước
vào
thời
kỳ
già
hóa
dân
số
sớm
hơn
6
năm
so
với
dự
kiến
của
Tổng
cục
Dân
số
là
đến
năm
2017.
Ngoài
ra,
tỷ
lệ
chênh
lệch
giới
tính
khi
sinh
đang
tăng
dần,
với
tỷ
lệ
mức
trung
bình
là
105,2
bé
trai/100
bé
gái
ở
nhóm
dân
số
nghèo
và
112,9
bé
trai
ở
nhóm
dân
số
giàu.
Bên
lề
hội
thảo
về
mất
cân
bằng
giới
tính
khi
sinh
diễn
ra
ngày
5
và
6-10
tại
Hà
Nội,
Thời
báo
Kinh
tế
Sài
Gòn
Online
đã
có
cuộc
trao
đổi
với
ông
Dương
Quốc
Trọng,
Tổng
cục
trưởng
Tổng
cục
Dân
số
-
Kế
hoạch
hóa
gia
đình,
Bộ
Y
tế
về
những
chính
sách
làm
giảm
sự
chênh
lệch
trên.
TBKTSG
Online:
Qua
báo
cáo
của
Tổng
cục
Dân
số,
giải
pháp
quan
trọng
nhất
giúp
hạn
chế
tình
trạng
mất
cân
bằng
giới
tính
khi
sinh
là
hoạt
động
tuyên
truyền
nhằm
thay
đổi
hành
vi
và
nhận
thức
của
người
dân.
Vậy
theo
ông,
những
hoạt
động
này
sẽ
được
thực
hiện
như
thế
nào?
-
Ông
Dương
Quốc
Trọng:
Mất
cân
bằng
giới
tính
khi
sinh
chính
là
hậu
quả
của
việc
sử
dụng
dịch
vụ
lựa
chọn
giới
tính
trước
khi
sinh.
Khi
người
dân
có
nhu
cầu
lựa
chọn
giới
tính
ắt
sẽ
có
những
tổ
chức
hoạt
động
đáp
ứng
nhu
cầu
này.
Nếu
hạn
chế
sự
chênh
lệch
về
tỷ
số
giới
tính
khi
sinh
mà
chỉ
giảm
cung
(giảm
các
hoạt
động
xác
định
giới
tính)
thì
chỉ
là
biện
pháp
tạm
thời
và
không
mang
tính
vững
bền.
Điều
quan
trọng
nhất
là
giảm
cầu,
tức
là
giảm
sự
mong
muốn
có
con
trai
của
các
cặp
vợ
chồng.
Thời
gian
tới,
chúng
tôi
không
chỉ
tuyên
truyền
về
việc
mất
cân
bằng
giới
tính
khi
sinh
mà
sẽ
tuyên
truyền
mạnh
hơn
về
nguy
cơ
và
hệ
lụy
của
vấn
đề
này.
Tuy
nhiên,
tôi
cho
rằng
việc
tuyên
truyền
thay
đổi
nhận
thức
hiện
nay
mới
chỉ
dừng
ở
hình
thức,
còn
thay
đổi
hành
vi
mới
là
điều
quan
trọng.
Để
có
thể
thay
đổi
hành
vi,
chúng
tôi
sẽ
huy
động
hơn
11.000
cán
bộ
chuyên
trách
ở
cơ
sở
cùng
với
168.000
cộng
tác
viên
thực
hiện
tuyên
truyền
để
các
gia
đình
hiểu
rằng
dù
sinh
hai
con
trai
hay
con
gái
cũng
giống
như
nhau
thay
vì
chỉ
tuyên
truyền
“mỗi
cặp
vợ
chồng
chỉ
có
từ
1
đến
2
con”
như
trước
kia.
Việc
xử
lý
vi
phạm
những
quy
định
là
điều
cần
thiết.
Tuy
nhiên,
quan
trọng
hơn
cả
là
giáo
dục
người
dân
và
người
thầy
thuốc,
nhân
viên
y
tế
nâng
cao
đạo
đức
của
họ
bởi
hành
vi
lựa
chọn
giới
tính
không
chỉ
vi
phạm
pháp
luật
mà
còn
vi
phạm
đến
đạo
đức;
ảnh
hưởng
đến
cơ
cấu
dân
số
sau
này.
Nếu
áp
dụng
triệt
để
các
chính
sách
hạn
chế
tình
trạng
lựa
chọn
giới
tính
khi
sinh
thì
theo
ông
phải
mất
bao
nhiêu
năm
thì
chúng
ta
mới
đạt
được
sự
cân
bằng
giới
tính?
Khó
có
thể
dự
đoán
tới
khi
nào
tỷ
lệ
giới
tính
khi
sinh
của
Việt
Nam
sẽ
trở
về
bình
thường.
Hiện
chúng
tôi
dự
báo
đến
năm
2018
-
2020
sự
chênh
lệch
sẽ
lên
đến
đỉnh
điểm
rồi
sau
đó
sẽ
dần
quay
ngược
trở
lại
mức
bình
thường.
Ví
dụ
như
hiện
tại,
mỗi
năm
tỷ
số
giới
tính
khi
sinh
tăng
1%,
thì
tới
đây
sẽ
cố
gắng
giảm
còn
0,3
đến
0,4%/năm.
Thay
đổi
tỷ
lệ
giới
tính
khi
sinh
không
phải
câu
chuyện
của
riêng
ai
mà
cũng
không
phải
công
việc
của
riêng
một
ngành
nào
cả.
Bởi
thay
đổi
một
phong
tục
tập
quán,
một
tư
tưởng
đã
ăn
sâu
vào
mỗi
con
người
Việt
Nam
là
rất
khó.
Hiện
Bộ
Y
tế
đang
xây
dựng
đề
án
“Can
thiệp
giảm
thiểu
mất
cân
bằng
giới
tính
khi
sinh”.
Có
ý
kiến
cho
rằng
hệ
thống
an
sinh
xã
hội
của
chúng
ta
chưa
hiệu
quả
khiến
người
cao
tuổi
lo
lắng
cho
cuộc
sống
sau
này
và
cách
sinh
con
trai
là
một
trong
những
lý
do
giúp
họ
yên
tâm
có
được
người
chăm
sóc
khi
về
già.
Điều
này
có
đúng
không,
thưa
ông?
Tôi
cho
rằng
yếu
tố
góp
phần
làm
mất
cân
bằng
giới
tính
khi
sinh
chính
là
lòng
mong
muốn
có
con
trai;
sự
phát
triển
của
công
nghệ
hiện
đại
và
các
yếu
tố
phụ
trợ.
Trong
đó,
yếu
tố
phụ
trợ
bao
gồm
chính
sách
an
sinh
xã
hội
chưa
đảm
bảo;
tức
là
người
ta
cần
có
con
trai
để
sau
này
đảm
bảo
cuộc
sống
khi
về
già.
Theo
thống
kê
của
Tổng
cục
Dân
số,
tính
đến
năm
2010,
tỷ
lệ
người
trên
60
tuổi
tại
Việt
Nam
chiếm
4,6%
dân
số
của
đất
nước,
tỷ
lệ
người
từ
65
tuổi
trở
lên
chiến
6,8%
dân
số.
Và
với
đà
tăng
của
năm
2010,
thì
đến
năm
2011,
tỷ
lệ
người
từ
60
tuổi
trở
lên
được
dự
báo
là
10,1
%;
người
từ
65
tuổi
trở
lên
là
7,2
%.
Theo
tiêu
chí
nào
thì
Việt
Nam
cũng
đã
bước
vào
giai
đoạn
già
hóa
dân
số,
sớm
hơn
dự
báo
của
Tổng
cục
Dân
số
là
vào
năm
2017.
Ngoài
ra,
yếu
tố
vùng
miền
cũng
ảnh
hưởng
đến
mất
cân
bằng
giới
tính
khi
sinh
bởi
có
một
số
nơi
cho
rằng
muốn
làm
kinh
tế
thì
phải
sinh
được
con
trai
như
các
vùng
sản
xuất
nông,
ngư
nghiệp.
Điều
đó
cũng
tạo
áp
lực
đối
với
các
gia
đình
là
phải
sinh
bằng
được
con
trai.
Một
trong
những
thách
thức
lớn
nhất
chính
là
70%
người
cao
tuổi
sống
ở
nông
thôn
hầu
hết
không
có
lương
hưu,
mà
chính
sách
an
sinh
xã
hội
chưa
đảm
bảo
khiến
viêc
phải
có
con
trai
để
phụng
dưỡng
sau
này
đã
trở
thành
áp
lực
đối
với
viêc
thay
đổi
sự
chênh
lệch
về
giới
tính
khi
sinh.
Trong
thời
gian
tới
chúng
ta
phải
thực
hiện
đẩy
mạnh
an
sinh
xã
hội
và
chế
độ
bảo
hiểm
cho
thật
tốt
để
người
già
có
thể
yên
tâm
hơn
khi
họ
không
có
con
hoặc
chỉ
có
con
gái.
Từ
đó
mới
có
thể
có
mong
muốn
giảm
sinh,
và
giảm
áp
lực
phải
sinh
con
trai
giúp
rút
ngắn
dần
sự
chênh
lệch
về
giới
tính
khi
sinh.
Xin
cảm
ơn
ông!