Thế
giới
và
Việt
Nam,
đặc
biệt
là
những
người
nghèo,
đã
phải
gánh
chịu
những
tác
động
rất
nặng
nề
do
giá
lương
thực
(LT)
tăng
cao
và
liên
tục.
Từ
cuộc
khủng
hoảng
năm
2008,
lần
đầu
tiên
các
quốc
gia,
kể
cả
những
nước
xuất
khẩu
LT
như
Việt
Nam
đã
có
những
nhìn
nhận
nghiêm
túc
về
an
ninh
LT
quốc
gia,
không
chỉ
là
sản
lượng,
năng
suất
hay
chất
lượng
mà
còn
là
giá
LT
trên
thị
trường.
Việc
khủng
hoảng
giá
LT,
thực
phẩm
có
thể
gây
ra
bất
ổn
về
xã
hội
và
chính
trị
ở
các
nước
đang
phát
triển,
đặc
biệt
là
nước
nghèo.
Năm
2011,
với
sự
hỗ
trợ
của
Tổ
chức
Action
Aid
Việt
Nam
(AAV),
nhóm
chuyên
gia
của
Mạng
An
ninh
lương
thực
và
giảm
nghèo
(CIFPEN)
đã
thực
hiện
các
nghiên
cứu
ban
đầu
về
biến
động
của
giá
cả
LT
và
tác
động
của
giá
LT
đến
người
sản
xuất
và
người
nghèo.
Nghiên
cứu
đã
chỉ
ra
một
số
vấn
đề
sau:
Một
là,
những
năm
gần
đây,
giá
LT
liên
tục
có
biến
động
mạnh
và
không
ổn
định.
Ví
dụ,
trong
năm
2008,
giá
LT,
thực
phẩm
trên
thế
giới
tăng
80%,
trong
đó
riêng
giá
LT
tăng
tới
230%,
giá
thực
phẩm
tăng
12,8%.
Sau
đó,
vào
năm
2009,
giá
giảm
đi
đôi
chút
nhưng
lại
tăng
mạnh
từ
cuối
năm
2010
cho
đến
nay,
mức
tăng
cao
hơn
cả
năm
2008.
Hai
là,
việc
giá
LT
tăng
mạnh
trong
thời
gian
qua,
mặc
dù
đã
làm
tăng
phúc
lợi
bình
quân
của
nông
dân
Việt
Nam
thêm
7,5%,
tuy
nhiên
thực
tế
cho
thấy
số
người
hưởng
lợi
ít
hơn
rất
nhiều
số
người
bị
ảnh
hưởng
tiêu
cực.
Đặc
biệt
là
những
hộ
gia
đình
thiếu
đói
LT
lại
không
được
hưởng
lợi
mà
trái
lại,
việc
tăng
giá
LT,
thực
phẩm
đã
làm
giảm
2,1%
phúc
lợi
của
các
hộ
nghèo
và
cũng
làm
cho
khoảng
cách
giàu
-
nghèo
tăng
lên.
Ba
là,
nguyên
nhân
chính
của
việc
tăng
giá
LT
trong
nước,
theo
các
chuyên
gia,
gồm:
Giá
cả
xuất
-
nhập
khẩu
LT
(gồm
cả
lúa
gạo
và
ngô).
Việt
Nam
là
nước
xuất
khẩu
gạo
nhưng
lại
nhập
-
khẩu
ngô,
do
vậy
sự
biến
động
giá
cả
xuất
nhập
khẩu
ảnh
hưởng
rất
lớn
đến
giá
cả
LT
trong
nước.
Diện
tích
sản
xuất
LT,
đặc
biệt
là
sản
xuất
lúa
bị
giảm
do
đô
thị
hóa,
công
nghiệp
hóa.
Sản
lượng
giảm
và
tiếp
cận
LT
khó
khăn
do
thiên
tai,
dịch
bệnh.
Nguyên
nhân
này
thường
gia
tăng
theo
từng
vùng,
từng
thời
điểm,
nhất
là
khi
xảy
ra
thiên
tai.
Tình
trạng
lạm
phát
và
giá
đầu
vào
tăng
khiến
giá
LT
tăng
cao.
|
Biểu
đồ
giá
gạo
15%
tấm,
từ
01/2008-5/2011
tại
tỉnh
Tiền
Giang. |
Bốn
là,
các
chính
sách
hỗ
trợ
của
Chính
phủ
nhằm
bình
ổn
giá
LT,
giảm
thiểu
tác
động
tiêu
cực
đến
nhóm
hộ
bị
ảnh
hưởng
chưa
đạt
kết
quả
như
mong
đợi.
Chính
phủ
đã
đưa
ra
chính
sách
hỗ
trợ
cho
các
đơn
vị
thu
mua
LT
nhằm
đảm
bảo
sản
xuất
LT,
nhưng
gói
hỗ
trợ
này
mang
lại
lợi
ích
cho
các
doanh
nghiệp
hơn
là
cho
người
sản
xuất;
người
sản
xuất
có
được
hưởng
do
giá
mua
LT
cao
hơn
nhưng
do
giá
đầu
vào
của
sản
xuất
(giống,
phân
bón,
xăng
dầu)
và
rủi
ro
trong
sản
xuất
tăng
đã
làm
cho
họ
không
thực
sự
thu
được
lợi
nhuận.
Đồng
thời
chính
sách
này
đã
không
trợ
giúp
được
cho
người
tiêu
dùng.
Cùng
với
việc
tăng
giá
LT,
giá
thực
phẩm
cũng
tăng
cao
làm
cho
đời
sống
của
người
nghèo,
người
có
thu
nhập
thấp
bị
ảnh
hưởng
ngày
càng
nghiêm
trọng.
Trong
các
tình
huống
thiên
tai,
Chính
phủ
đã
có
chính
sách
trợ
cấp
LT,
tuy
nhiên
việc
phân
phối
và
sử
dụng
ở
một
số
địa
phương
chưa
tốt,
làm
giảm
tính
hiệu
quả
của
những
chính
sách
này.