Tổng
đầu
tư/GDP
của
Việt
Nam
giai
đoạn
từ
2006
–
2011
lại
quá
lớn,
trung
bình
đều
trên
40%,
trong
khi
đó
tiết
kiệm
của
người
dân
(mặc
dù
được
xem
là
cao
khoảng
35%)
lại
thấp
hơn
rất
nhiều.
Sáng
nay
(ngày
21/3),
Trung
tâm
Nghiên
cứu
kinh
tế
và
chính
sách
(VERP)
đã
tổ
Tọa
đàm
Đối
thoại
chính
sách
Hướng
tới
một
khung
khổ
chính
sách
kinh
tế
vĩ
mô
cho
Việt
Nam
trong
trung
và
dài
hạn.
Theo
nhóm
nghiên
cứu,
nguyên
nhân
gây
bất
ổn
kinh
tế
thời
gian
vừa
qua
là
do
cải
cách
kinh
tế
trong
nước
không
theo
kịp
so
với
sự
hội
nhập
quốc
tế
(thiếu
khu
vực
tư
nhân
manh,
thị
tường
tài
chính
chưa
sâu
và
lạnh
lạnh,
thiếu
tự
do
hóa
thị
trường
nội
địa).
Trong
khi
đó,
Chính
phủ
lại
lựa
chọn
chiến
lược
nhằm
thích
ứng
với
quá
trình
hội
nhập
một
cách
sai
lầm
dẫn
đến
nguồn
lực
bị
phân
bổ
sai
(vào
khu
vực
nhà
nước),
làm
giảm
toàn
bộ
năng
suất
nền
kinh
tế.
Một
báo
cáo
của
Tiến
sĩ
Vũ
Thành
Tự
Anh
đã
chỉ
ra
rằng:
Xét
về
mức
độ
phân
tán/tập
trung
của
các
tập
đoàn
nhà
nước
thì
Việt
Nam
cũng
xếp
vào
hàng
“vô
địch”.
Nếu
ở
Việt
Nam,
điểm
số
này
là
6,4
thì
Hàn
Quốc
chỉ
là
1,7;
Indonesia
là
2,1;
Philippines
là
3,1,
thậm
chí
Trung
Quốc
cũng
chỉ
mức
2,3.
Mặc
dù,
Việt
Nam
cố
gắng
hội
nhập
và
duy
trì
tăng
trưởng
kinh
tế
trong
khi
năng
suất
của
nền
kinh
tế
tăng
chậm
hoặc
không
tăng.
Dẫn
đến
đến
lạm
dụng
chính
sách
tiền
tệ,
tài
khóa
và
sau
đó
là
hành
chính.
Càng
làm
cho
nguồn
lực
bị
phân
bổ
méo
mó.
Khoảng
cách
giữa
tiết
kiệm
và
đầu
tư
quá
lớn
TS
Nguyễn
Đức
Thành,
Giám
đốc
Trung
tâm
Nghiên
cứu
Kinh
tế
và
Chính
sách
(VEPR)
cho
rằng,
tiết
kiệm
của
Việt
Nam
so
với
thế
giới
không
hề
thấp
(khoảng
35%)
tuy
nhiên
tổng
đầu
tư/GDP
của
Việt
Nam
giai
đoạn
từ
2006
–
2011
lại
quá
lớn,
trung
bình
đều
trên
40%.
Riêng
năm
2011,
do
Chính
phủ
thực
hiện
chính
sách
cắt
giảm
đầu
tư
công
để
kiềm
chế
lạm
phát
nên
con
số
này
chỉ
dừng
ở
mức
34,6%.
Theo
ông
Thành,
sở
dĩ
đầu
tư
của
Việt
Nam
luôn
ở
mức
cao
là
do
mô
hình
tăng
trưởng
kinh
tế
của
Việt
Nam
dựa
trên
mở
rộng
đầu
tư
nhưng
chất
lượng
đầu
tư
ngày
càng
giảm,
năng
suất
nền
kinh
tế
không
được
cải
thiện.
“Nhà
nước
đã
đầu
tư
quá
nhiều
vào
khu
vực
công
nhưng
lại
lại
có
quá
ít
hàng
hóa
công
thực
thụ.
Khu
vực
kinh
tế
nhà
nước
có
sự
lấn
át
đối
với
khu
vực
kinh
tế
tư
nhân”
-
ông
Thành
nói.
Dẫn
dắt
số
liệu
từ
công
trình
nghiên
cứu
của
TS
Vũ
Thành
Tự
Anh
cho
biết,
ngay
cả
trong
bối
cảnh
chịu
áp
lực
cổ
phần
hóa
thì
tỉ
lệ
doanh
số
của
10
đại
tập
đoàn
kinh
tế
Việt
Nam
trên
GDP
vẫn
thuộc
loại
lớn
nhất
thế
giới.
Cụ
thể,
tỷ
lệ
này
của
Việt
Nam
lên
tới
37,3%,
chỉ
đứng
sau
Hàn
Quốc
thời
gian
trước
khủng
hoảng,
còn
lại
đều
vượt
xa
các
nước
khác.
Một
số
ví
dụ
khác
được
dẫn
ra
có
Trung
Quốc
(9,4%),
Đài
Loan
(19%),
Indonesia
(25%),
Brazil
(8%),
Argentina
(11%)
và
Mexico
(10%).
Ông
Thành
khái
quát,
trong
bối
cảnh
đó
để
giữ
được
tăng
trưởng
Việt
Nam
ngày
càng
phải
đẩy
mạnh
đầu
tư,
khoảng
cách
giữa
đầu
tư
-
tiết
kiệm
cũng
chính
vì
thế
mà
ngày
một
xa
nhau.
Và
việc
“bơm
“
tiền
thông
qua
kênh
tín
dụng
đã
được
sử
dụng.
Hệ
quả
tất
yếu
là
lạm
phát
sẽ
xảy
ra
và
gây
bất
ổn
đối
với
kinh
tế
vĩ
mô.
Chính
sách
vĩ
mô
nào
cho
trung
và
dài
hạn?
Nhóm
nghiên
cứu
cho
rằng,
các
chính
sách
vĩ
mô
ngắn
hạn
hiện
nay
chưa
rõ
mục
tiêu
ưu
tiên.
Chẳng
hạn
như
thực
hiện
chính
sách
tiền
tệ
hiện
nay
nhằm
mục
đích
vĩ
mô
nào:
Kiềm
chế
lạm
phát?
Ổn
định
tỷ
giá
hay
đáp
ứng
yêu
cầu
tăng
trưởng?
Chính
sách
cơ
cấu
kinh
tế
và
mô
hình
tăng
trưởng
cũng
chưa
có
chiến
lược
ưu
tiên
rõ
ràng.
Trong
khi
cốt
lõi
của
việc
cải
cách
là
thay
đổi
vai
trò
của
khối
doanh
nghiệp
nhà
nước
thì
dường
như
vẫn
giữ
vai
trò
chủ
đạo.
Về
trung
hạn,
nhóm
nghiên
cứu
cho
rằng,
Việt
Nam
phải
hướng
tới
xây
dựng
thể
chế
điều
hành
theo
bộ
ba:
Đặt
mục
tiêu
lạm
phát;
tỷ
giá
dần
thả
nổi
và
tự
do
hóa;
điều
hành
chính
sách
tiền
tệ
có
nguyên
tắc,
không
tùy
ý.
Cụ
thể,
đưa
dần
về
vùng
lạm
phát
ổn
định
trong
trung
hạn
khoảng
10
năm
với
4
–
6%/năm.
Năm
thành
tố
chính
sách
cần
phải
được
thực
hiện,
bao
gồm:
Công
khai
về
mục
tiêu
cao
nhất
của
Ngân
hàng
Nhà
nước
là
ổn
định
tỷ
giá,
xây
dựng
chính
sách
dựa
trên
nhiều
chỉ
số
vĩ
mô
cùng
một
lúc,
Ngân
hàng
Nhà
nước
tăng
tính
minh
bạch
và
dối
thoại
nhiều
hơn
nữa
với
công
chúng.
Về
tỷ
giá,
sử
dụng
các
công
cụ
để
giảm
mức
linh
hoạt
của
dòng
vốn
gián
tiếp
(thuế
–
phí
theo
thời
gian
hoạt
động
trong
nước).
Trên
cơ
sở
đó
hình
thành
thị
trường
tỷ
giá
và
các
công
cụ
thị
trường
hiện
đại
để
phòng
ngừa
rủi
ro.
Về
chính
sách
tài
khóa,
nhóm
nghiêm
cứu
cho
rằng
không
nên
coi
chỉ
tiêu
của
Chính
phủ
là
động
lực
chính
thúc
đẩy
sự
tăng
trưởng
kinh
tế.
Nên
định
hướng
giảm
quy
mô
chi
tiêu
của
Chính
phủ
về
mức
20%
GDP.
Thâm
hụt
ngân
sách
phải
được
sớm
thu
hẹp
nhằm
tránh
sự
gia
tăng
nhanh
của
nợ
cộng
và
những
rủi
ro
đi
kèm.
Gánh
nặng
về
thuế
cần
phải
được
giảm
dần.
Chẳng
hạn,
hiện
nay
doanh
nghiệp
đang
rất
khó
khăn,
Chính
phủ
nên
tính
đến
chuyện
giảm
thuế
thu
nhập
doanh
nghiệp
từ
mức
25%
như
hiện
nay
xuống
còn
22
–
23%.
Việc
tăng
thu
ngân
sách
phải
được
thực
hiện
thông
qua
tỷ
lệ
tuân
thủ
cao
hơn
là
trên
cơ
sở
nâng
thuế
suất
và
đánh
thuế
chồng
lên
thuế.
Doanh
nghiệp
nhà
nước
cần
chuyển
từ
vài
trò
chủ
đạo
sang
vai
trò
hỗ
trợ.
Nhóm
nghiên
cứu
cho
rằng,
Nhà
nước
chỉ
nắm
100%
cổ
phần
đối
với
các
doanh
nghiệp
công
ích,
đặc
biệt;
Nắm
65%
đối
với
những
doanh
nghiệp
chủ
động
thực
hiện
chính
sách
ngành,
phần
còn
lại
chỉ
dành
cho
đối
tác
chiến
lược
(không
có
sự
tham
gia
của
các
thành
phần
khác);
Tỷ
lệ
nắm
giữ
30
–
51%
đối
với
những
ngành
cần
có
khuyến
khích
nhưng
phải
có
lộ
trình
thoái
vốn
rõ
rằng;
Tất
cả
các
trường
hợp
còn
lại
đều
phải
thoái
vốn
hết.
Ngoài
ra,
ông
Thành
cũng
nhấn
mạnh
thêm
trong
thời
gian
qua
số
lượng
doanh
nghiệp
nhà
nước
đã
giảm
đáng
kể
nhưng
quy
mô
thì
lại
có
sự
tăng
lên.
Trong
thời
gian
tới,
cần
tiếp
tục
đẩy
mạnh
giảm
số
lượng
và
quy
mô
của
khối
doanh
nghiệp
này.
Đồng
thời,
việc
thực
hiện
chính
sách
về
chống
độc
quyền
–
hành
chính
phải
được
đẩy
mạnh
hơn
nữa.