Sự
hiểu
sai
cơ
bản
về
những
khái
niệm
như
vốn,
tài
sản,
nợ
còn
phổ
biến
nhiều
hơn
nữa
ở
các
doanh
nhân
một
khi
họ
lên
mặt
báo
để
phân
bua
điều
gì
đó.
Hỏi
chuyện
một
số
chuyên
gia
kinh
tế
vì
sao
dạo
này
không
viết
báo
nữa,
nhiều
người
trả
lời,
hầu
như
các
quy
luật
kinh
tế
không
có
tác
dụng
ở
Việt
Nam
cho
nên
họ
không
muốn
bị
hớ,
càng
viết
e
càng
sai
thực
tế.
Mà
đúng
như
thế
thật.
Lấy
chuyện
lãi
suất
làm
ví
dụ.
Ở
các
nước
khác
một
khi
người
có
thẩm
quyền
nói
lãi
suất
sẽ
phải
giảm
ngay,
hàng
loạt
tác
động
lên
thị
trường
sẽ
xuất
hiện.
Chẳng
hạn
giá
trái
phiếu
chính
phủ
sẽ
tăng
vì
người
ta
sẽ
đổ
tiền
ra
mua
trái
phiếu;
giá
cổ
phiếu
cũng
tăng;
tiền
đồng
sẽ
sụt
giá
so
với
các
đồng
tiền
khác...
Đặc
biệt
các
hiện
tượng
này
càng
bị
khuếch
đại
lên
nhiều
lần
nếu
người
ta
có
một
thời
gian
xoay
xở
từ
khi
biết
lãi
suất
chắc
chắn
sẽ
giảm
vào
đầu
tuần
trước
cho
đến
lúc
nó
giảm
thật
sự
vào
đầu
tuần
này.
Chuyện
tăng
hay
giảm
ở
các
nước
khác
có
khi
chỉ
là
0,25
điểm
phần
trăm
là
đã
gây
hiệu
ứng
lớn
chứ
ít
khi
lên
đến
1
điểm
phần
trăm
như
trong
trường
hợp
của
Việt
Nam.
Trong
thực
tế,
thị
trường
tuần
trước
hoàn
toàn
yên
ắng.
Chỉ
trừ
một
hiệu
ứng
tận
dụng
thời
gian
lãi
suất
chưa
giảm,
một
số
người
chuyển
các
khoản
tiền
tiết
kiệm
kỳ
hạn
ngắn
từng
tháng
sang
kỳ
hạn
dài
hơn
như
nguyên
năm
để
sau
này
lãi
suất
có
giảm,
họ
cũng
không
bị
ảnh
hưởng.
Ở
đây
cũng
lạ,
chưa
thấy
ở
nước
nào
người
ta
có
thể
biết
trước
một
cách
chắc
chắn
lãi
suất
sẽ
giảm
như
thế
cả.
Và
các
ngân
hàng,
không
phải
tất
cả
đều
giảm
lãi
suất
huy
động
vào
tuần
trước
để
đối
phó
với
khả
năng
lãi
suất
chắc
chắn
sẽ
giảm
-
thậm
chí
nhiều
nơi
còn
tận
dụng
thời
gian
này
để
thu
hút
tiền
gửi
dài
hạn
mặc
dù
phải
trả
lãi
cao.
Không
một
chuyên
gia
kinh
tế
tài
giỏi
nào
có
thể
lý
giải
tình
hình
thị
trường
như
thế
ngoại
trừ
một
loại
“lý
thuyết
âm
mưu”:
biết
đâu
càng
nhiều
người
chuyển
các
khoản
tiền
gửi
kỳ
hạn
ngắn
sang
kỳ
hạn
dài
là
càng
đúng
với
ý
muốn
của
những
người
làm
chính
sách.
Chỉ
có
như
vậy
mới
giải
thích
được
vì
sao
nói
giảm
lãi
suất
từ
đầu
tuần
trước
mà
cho
đến
đầu
tuần
này,
lãi
suất
mới
giảm
thật
sự.
Một
chuyện
khác
cũng
làm
các
chuyên
gia
kinh
tế
bó
tay.
Đó
là
việc
nhiều
công
ty
nhấn
mạnh
vào
số
lượng
tiền
mặt
lớn
công
ty
đang
nắm
giữ,
coi
đó
như
một
thế
mạnh
của
công
ty!
Báo
chí
cũng
dựa
vào
các
con
số
này
để
“phong”
“các
đại
gia
tiền
mặt”
của
Việt
Nam.
Trong
điều
kiện
bình
thường,
một
công
ty
ôm
một
mớ
tiền
mặt
là
đã
thấy
sự
bất
lực
không
biết
sử
dụng
đồng
tiền
vào
những
dự
án
mới
sao
cho
hiệu
quả.
Trong
bối
cảnh
lạm
phát,
lượng
tiền
mặt
càng
lớn,
công
ty
càng
thiệt
hại,
sao
lại
cho
đó
là
các
“đại
gia”.
Nếu
tiền
mặt
chuyển
thành
nguyên
liệu
sản
xuất,
đến
chu
kỳ
bán
hàng
mới,
doanh
nghiệp
mới
hy
vọng
mặt
bằng
giá
cả
mới
sẽ
giúp
họ
thu
hồi
vốn
và
có
lãi.
Còn
tiền
mặt
nằm
yên
một
chỗ,
sẽ
bị
hao
hụt
theo
lạm
phát,
trở
thành
gánh
nặng
cho
doanh
nghiệp.
Ở
đây,
các
chuyên
gia
tài
chính
cũng
lưu
ý
một
hiện
tượng:
phải
phân
biệt
sự
khác
nhau
giữa
đầu
tư
tài
chính
lành
mạnh
và
đầu
tư
tài
chính
liều
lĩnh
của
các
tập
đoàn
nhà
nước
đã
bị
phê
phán.
Một
doanh
nghiệp
lấy
dòng
tiền
của
mình
đầu
tư
vào
chứng
khoán
theo
phong
trào
hay
mua
cổ
phần
trực
tiếp
của
các
công
ty
khác
trong
lĩnh
vực
địa
ốc,
chứng
khoán...
là
một
quyết
định
có
nhiều
rủi
ro,
cần
cân
nhắc
rất
kỹ.
Ngược
lại,
một
doanh
nghiệp
khác
có
khoản
tiền
mặt
chưa
sử
dụng
đến,
đem
đi
mua
trái
phiếu
chính
phủ,
là
một
hoạt
động
bình
thường
trong
quản
trị
tài
chính.
Không
khéo,
mọi
người
sẽ
dị
ứng
với
cụm
từ
“đầu
tư
tài
chính”
và
bỏ
quên
luôn
các
quy
luật
quản
trị
thông
thường.
Sự
bó
tay
của
các
chuyên
gia
kinh
tế
cũng
xuất
phát
từ
cách
hiểu
sai
lệch
sự
vận
hành
của
nền
kinh
tế
thị
trường
của
các
quan
chức
nhà
nước.
Ví
dụ
khi
một
bộ
trưởng
đề
nghị
Ngân
hàng
Nhà
nước
(NHNN)
yêu
cầu
các
ngân
hàng
thương
mại
khoanh
nợ,
dãn
nợ
cho
một
số
doanh
nghiệp
nào
đó,
có
lẽ
ông
hiểu
nhầm
vai
trò
của
NHNN
hay
không
hiểu
cơ
chế
vận
hành
của
hệ
thống
ngân
hàng.
Ngay
cả
với
các
ngân
hàng
thương
mại
nhà
nước,
NHNN
cũng
đã
từ
lâu
không
thể
yêu
cầu,
chỉ
định
họ
cho
vay
chỗ
này,
khoanh
nợ
chỗ
kia
được.
Điều
đáng
tiếc,
nguyên
tắc
để
các
ngân
hàng
chịu
trách
nhiệm
về
các
khoản
vay
của
mình
đang
dần
dà
bị
bỏ
quên,
việc
chỉ
định
cho
vay
đối
với
doanh
nghiệp
nhà
nước
lại
tái
diễn,
việc
khoanh
nợ
cho
ngân
hàng
lại
xảy
ra.
Cho
nên
biết
đâu
ông
bộ
trưởng
nói
đúng
và
các
chuyên
gia
phê
phán
sai!
Sự
hiểu
sai
cơ
bản
về
những
khái
niệm
như
vốn,
tài
sản,
nợ
còn
phổ
biến
nhiều
hơn
nữa
ở
các
doanh
nhân
một
khi
họ
lên
mặt
báo
để
phân
bua
điều
gì
đó.
Chẳng
hạn
tổng
giám
đốc
một
công
ty
gần
phá
sản
vì
nợ
cùng
khắp
nói
không
có
gì
đáng
lo
vì
đã
có
đối
tác
sẵn
sàng
bỏ
ra
80
triệu
đô
la
mua
lại
nhà
máy,
dư
sức
để
trả
nợ.
Tám
mươi
triệu
đô
la
tương
đương
với
chừng
1.700
tỉ
đồng
trong
khi
vốn
điều
lệ
của
công
ty
này
chỉ
có
500
tỉ
đồng.
Không
ai
dại
gì
bỏ
ra
1.700
tỉ
đồng
mua
cổ
phần
của
một
công
ty
trên
bờ
phá
sản,
vốn
điều
lệ
chỉ
có
500
tỉ
đồng
trừ
phi
công
ty
đang
ăn
nên
làm
ra,
triển
vọng
hấp
dẫn
cỡ
Facebook
hay
Apple!