Trong
những
nhiệm
vụ
cấp
bách
cần
cấu
trúc
lại
nền
kinh
tế
"có
vấn
đề"
là
phải
cấu
trúc
lại
khối
các
tập
đoàn
kinh
tế,
tổng
công
ty
nhà
nước
và
các
tổ
chức
tín
dụng
Việt
Nam.
Tiến
sĩ
Nguyễn
Đại
Lai
gần
đây
đưa
ra
nhận
định
rằng,
tái
cấu
trúc
nền
kinh
tế
là
một
trong
những
nhiệm
vụ
quan
trọng
và
đã
là
chậm
sau
5
năm
Việt
Nam
trở
thành
thành
viên
của
Tổ
chức
thương
mại
Thế
giới
(WTO)
và
càng
chậm
so
với
mục
tiêu
đến
năm
2020
Việt
Nam
cơ
bản
là
một
nền
kinh
tế
công
nghiệp.
Trong
những
nhiệm
vụ
cấp
bách
cần
cấu
trúc
lại
nền
kinh
tế
"có
vấn
đề"
là
phải
cấu
trúc
lại
khối
các
tập
đoàn
kinh
tế,
tổng
công
ty
nhà
nước
và
các
tổ
chức
tín
dụng
Việt
Nam.
Tái
cơ
cấu
là
góp
phần
nâng
cao
năng
lực
cạnh
tranh
cho
các
doanh
nghiệp
Nhà
nước
PGS,
TS.
Nguyễn
Đắc
Hưng
khẳng
định,
tái
cơ
cấu
là
góp
phần
nâng
cao
năng
lực
cạnh
tranh
thực
sự
của
chính
các
tập
đoàn
kinh
tế,
tổng
công
ty
nhà
nước,
cũng
như
góp
phần
tại
môi
trường
cạnh
tranh
lành
mạnh,
bình
đẳng
giữa
các
doanh
nghiệp
trong
giai
đoạn
hiện
nay.
Tiếp
theo,
đó
là
vấn
đề
số
nợ
phải
trả
nói
chung,
nợ
vốn
vay
các
ngân
hàng
nói
riêng
của
khối
doanh
nghiệp
này
rất
lớn,
nếu
không
cơ
cấu
lại
và
giải
quyết
nợ
thì
không
tạo
được
môi
trường
lành
mạnh
cho
cạnh
tranh
trong
lĩnh
vực
hoạt
động
tín
dụng
ngân
hàng
đối
với
phân
khúc
khách
hàng
rất
quan
trọng
này.
Theo
số
liệu
của
Bộ
Tài
chính,
81
trong
tổng
số
91
tập
đoàn,
tổng
công
ty
không
bao
gồm
Vinashin
có
tổng
số
nợ
phải
trả
đến
hết
năm
2009
là
813.435
tỉ
đồng,
gấp
1,5
lần
vốn
chủ
sở
hữu
và
bằng
58%
tổng
tài
sản.
Tỷ
lệ
nợ
trên
vốn
chủ
sở
hữu
này
là
thấp
hơn
so
với
quy
định
(3
lần).
Vấn
đề
nổi
lên
hiện
nay
là
một
số
tập
đoàn,
tổng
công
ty
nhà
nước
đang
ở
trong
tình
trạng
thua
lỗ
lớn,
nợ
ngân
hàng
ở
mức
độ
cao,
nợ
quá
hạn
đang
phát
sinh
ngày
càng
lớn.
Tổng
công
ty
thua
lỗ
lớn
phải
kể
đến:
Tập
đoàn
điện
lực
Việt
Nam
(EVN),
Tổng
công
ty
hàng
hải
Việt
Nam,…Tổng
công
ty
xăng
dầu
(Petrolimex)
thì
thua
lỗ
lớn
trong
mảng
kinh
doanh
xăng
dầu.
Nợ
ngân
hàng
lớn
nhất
và
đang
phát
sinh
nợ
xấu
nhiều
nhất
là
Vinashin.
Mối
quan
hệ
giữa
các
tổ
chức
tín
dụng
với
các
khu
vực
khác
đã
bộc
lộ
nhiều
bất
ổn
Tiến
sĩ
Nguyễn
Đại
Lai
cho
biết,
hệ
thống
các
tổ
chức
tín
dụng
(TCTD)
nói
chung,
các
ngân
hàng
thương
mại
(NHTM)
ở
nước
ta
nói
riêng
dường
như
vẫn
đang
phải
hoạt
động
trong
môi
trường
kinh
doanh
còn
rất
nhiều
bất
cập:
về
thể
chế
sở
hữu,
về
năng
lực
cạnh
tranh
và
về
cơ
chế
thị
trường.
Trong
TTTC,
“không
gian”
hoạt
động
của
các
NHTM
còn
phải
ôm
đồm,
bao
sân
quá
rộng
và
cơ
chế
hoạt
động
kinh
doanh
của
hệ
thống
các
TCTD
VN
còn
rất
nhiều
bất
cập.
TCTD
nhiều
khi
lúng
túng
bởi
là
đối
tượng
bị
điều
chỉnh
giữa
Luật
và
lệnh.
Thậm
chí
có
khi
phải
hoạt
động
theo
Lệnh
nhiều
hơn
theo
Luật.
Tiến
sĩ
Nguyễn
Đại
Lai
cũng
nhận
định
rằng,
đến
nay
cả
môi
trường
pháp
lý,
cả
vị
thế
và
năng
lực
của
các
TCTD
trong
hoạt
động
kinh
doanh
đều
còn
bất
cập
đến
từ
đủ
4
phía:
từ
bản
thân
nội
lực
của
TCTD;
từ
sự
quản
lý,
điều
hành
của
Ngân
hàng
Nhà
nước
(NHNN);
từ
khách
hàng
của
TCTD
và
từ
chính
sách
vĩ
mô
của
Nhà
nước!
Đánh
giá
năng
lực
cạnh
tranh
của
các
NHTM
Việt
Nam,
TS.
Tô
Ánh
Dương,
Trưởng
phòng
Phòng
Kinh
tế
Vĩ
mô,
Viện
Kinh
tế
Việt
Nam
nhận
định,
năng
lực
tài
chính
của
các
NHTM
còn
thấp
trong
khi
hệ
số
an
toàn
vốn
tối
thiểu
không
cao,
khả
năng
sinh
lời
thấp
và
không
bền
vững
cũng
như
chất
lượng
tài
sản
thấp
và
tiềm
ẩn
nhiều
rủi
ro.
Thanh
khoản
của
hệ
thống
ngân
hàng
thương
mại
chưa
thực
sự
vững
chắc,
huy
động
vốn
của
ngân
hàng
thương
mại
chủ
yếu
là
kỳ
hạn
ngắn
với
tỷ
trọng
74%
trong
tổng
nguồn
vốn
huy
động,
trong
khi
cho
vay
trung
dài
hạn
chiếm
tỷ
trọng
khoảng
44%
tổng
dư
nợ
cho
vay.
Hoạt
động
của
hệ
thống
các
TCTD
còn
tiềm
ẩn
nhiều
rủi
ro,
một
số
TCTD
tập
trung
tăng
nhanh
quy
mô
mạng
lưới,
quy
mô
tài
sản,
chứng
khoán,
bất
động
sản.
Đánh
giá
trên
bảng
tổng
kết
tài
sản
của
đa
số
NHTM
và
thực
tế
giám
sát
của
hệ
thống
giám
sát
ngân
hàng,
cho
thấy
tính
lành
mạnh
của
hệ
thống
NHTM
Việt
Nam
vẫn
còn
yếu
kém,
mức
độ
rủi
ro
thanh
khoản
và
mất
an
toàn
hệ
thống
còn
cao.