Giáp
trạng
(thyroid
gland)
là
một
tuyến
nhỏ
hình
móng
ngựa,
nằm
ở
trước
cổ,
phía
dưới
cục
xương
lộ
ra.
Tuyến
tiết
kích
thích
tố
thyroxine.
Tên
khoa
học
của
thyroxine
lằng
nhằng,
nên
người
ta
hay
gọi
tắt
nó
là
T4.
Không
chất
nào
trong
cơ
thể
có
tác
dụng
đa
năng
như
T4.
Nó
điều
khiển
sự
biến
dưỡng
của
các
cơ
quan
trong
cơ
thể,
thúc
đẩy
mọi
tế
bào
làm
việc,
kiểm
soát
sự
sử
dụng
năng
lượng,
cung
cấp
các
chất
cần
cho
sự
hoạt
động
của
tế
bào.
Nó
còn
ảnh
hưởng
đến
sự
khôn
lớn
và
trưởng
thành
của
tất
cả
các
tế
bào.
Trên
óc
ta,
có
một
tuyến,
gọi
tuyến
não
thùy
(pituitary
gland).
Tuyến
này
thuộc
hàng
giám
đốc,
giám
thị
và
đốc
thúc
các
tuyến
khác
làm
việc.
Tuyến
não
thùy
tiết
những
chất
có
tác
dụng
kích
thích
những
tuyến
dưới
quyền:
giáp
trạng,
thượng
thận
(adrenal
glands),
buồng
trứng
(ovaries),
dịch
hoàn
(testicles),
...
Trong
những
chất
ấy,
có
chất
TSH
(thyroid
stimulating
hormone),
làm
công
việc
kích
thích
tuyến
giáp
trạng,
thúc
đẩy
tuyến
giáp
trạng
chăm
chỉ
tiết
đủ
T4
cho
cơ
thể.
Nhờ
sự
tận
tụy
của
tuyến
não
thùy,
dòm
chừng
và
thúc
đẩy
tuyến
giáp
trạng,
cơ
thể
ta
luôn
có
đủ
T4
để
hoạt
động,
và
khi
thử
máu,
ta
thấy
cả
T4
lẫn
TSH
đều
bình
thường,
không
tăng
cao
hay
xuống
thấp.
Tuyến
não
thùy
cũng
điều
động
các
tuyến
quan
trọng
khác
của
cơ
thể
với
cơ
chế
tương
tự.
Giá
cứ
điều
hòa
như
thế,
kể
cả
những
việc
khác
của
cuộc
đời.
Được
vậy
thì
sướng
quá,
mọi
người
sinh
ra,
mạnh
khỏe,
ngao
du
cõi
thế
đủ
ba
vạn
tám
nghìn
ngày,
rồi
một
đêm
nằm
ngủ
không
dậy
nữa,
êm
đềm
ra
khỏi
cuộc
đời.
Nhưng
tuyến
giáp
trạng
nó
lại
hay
gây
rắc
rối,
cho
cuộc
đời
ta
thêm
phiền.
Nhất
là
ở
phụ
nữ.
Nó
có
thể
trở
thành
cường
(hyperthyroidism),
suy
(hypothyroidism),
hoặc
chẳng
cường,
chẳng
suy,
nhưng
cứ
lừng
lững
to
lên
thành
bướu
lành,
hoặc
ung
thư.
Đã
vậy,
thỉnh
thoảng
nó
còn
bị
viêm
(thyroiditis).
Trong
bài
này,
ta
bàn
về
“cường
tuyến
giáp
trạng”
(hyperthyroidism),
tình
trạng
tuyến
hoạt
động
mạnh
quá.
Có
đến
ba
bốn
kiểu
cường
tuyến
giáp
trạng:
toàn
thể
tuyến
cùng
cường,
cùng
tiết
ra
nhiều
T4
và
to
lên;
có
khi
toàn
tuyến
không
to
lên,
nhưng
nổi
một
hoặc
nhiều
cục
u
lổn
nhổn
và
chất
T4
chỉ
tiết
nhiều
hơn
bình
thường
ở
những
chỗ
trong
tuyến
có
các
cục
u
này
(toxic
adenoma
hay
toxic
multinodular
goiter).
Lại
có
khi
tuyến
giáp
trạng
cường,
âm
thầm
tiết
nhiều
T4,
nhưng
chẳng
to
lên
tí
nào
(nhiều
vị
có
tuổi
bị
cường
giáp
trạng
loại
này).
Loại
cường
tuyến
giáp
trạng
nhiều
nhất
là
loại
toàn
thể
tuyến
cùng
cường
và
to
lên.
Loại
bệnh
này
chiếm
đến
90%
các
trường
hợp
cường
tuyến
giáp
trạng,
có
tên
đặc
biệt
là
“bệnh
Graves”,
hay
“bệnh
Basedow”.
Nguyên
nhân
Vì
đâu
lại
có
bệnh
cường
tuyến
giáp
trạng?
Nguyên
nhân
gây
bệnh
còn
nhiều
chỗ
mù
mờ,
nhưng
trong
loại
bệnh
cả
tuyến
cùng
cường
và
to
lên
(bệnh
Graves
hay
bệnh
Basedow),
người
ta
cho
rằng
vì
lý
do
nào
chưa
rõ,
tự
dưng,
cơ
thể
tạo
ra
những
kháng
thể
có
tác
dụng
kích
thích
(thyroid-stimulating
antibodies),
giả
dạng
TSH,
đến
bám
vào
các
tế
bào
của
tuyến
giáp
trạng,
chỗ
bình
thường
TSH
vẫn
hay
bám
vào
để
điều
hòa
sự
làm
việc
của
tuyến
giáp
trạng
(TSH
receptors).
Bám
trụ
nơi
những
chỗ
ấy,
chúng
bắt
chước
TSH,
đánh
lừa,
thúc
đẩy
tuyến
giáp
trạng
hoạt
động
mạnh
bất
thường,
tiết
ra
nhiều
chất
T4
quá.
Đời
đâu
cũng
đầy
những
lừa
đảo.
Định
bệnh
Khi
tuyến
giáp
trạng
tiết
ra
quá
nhiều
chất
T4,
bộ
máy
cơ
thể
ta
sẽ
chạy
nhanh
hơn.
Máy
chạy
nhanh,
tỏa
nhiều
nhiệt,
nên
người
bệnh
lúc
nào
cũng
nóng
nảy,
kém
chịu
nóng
(heat
intolerance),
toát
mồ
hôi,
tinh
thần
căng
thẳng,
mất
ngủ,
tính
tình
thất
thường,
lúc
nóng
lúc
nguội,
tay
chân
run
rẩy.
Người
bệnh
ăn
nhiều
mà
vẫn
xuống
cân,
yếu
mệt,
tim
đập
nhanh,
hồi
hộp,
khó
thở,
tiêu
chảy,
kinh
ra
ít.
Các
bắp
thịt
tay
chân
yếu,
mất
sức,
biểu
hiệu
rõ
nhất
khi
lên
thang.
Nhiều
trường
hợp,
mắt
họ
thành
to,
lộ.
Nơi
người
lớn
tuổi,
triệu
chứng
cường
giáp
trạng
thường
mơ
hồ:
xuống
cân,
yếu
mệt,
buồn
sầu...
Có
khi
những
triệu
chứng
về
tim
lại
nhiều
hơn:
tim
đập
thất
nhịp,
suy
tim,
đau
ngực...
Bệnh
tuyến
giáp
trạng
xảy
ra
khá
thường
ở
các
vị
lớn
tuổi,
triệu
chứng
hay
mơ
hồ,
nên
khi
các
cụ
có
bất
cứ
triệu
chứng
chi
khác
lạ,
nhất
là
khi
các
cụ
có
suy
tim,
hoặc
tim
thất
nhịp,
nếu
cần
thử
máu
để
tìm
hiểu
vấn
đề,
thường
bác
sĩ
cho
thử
cả
T4
và
TSH.
Sự
định
bệnh
dựa
vào
triệu
chứng
người
bệnh
kể
bác
sĩ
nghe,
sự
thăm
khám,
thử
nghiệm
đo
các
chất
T4,
TSH
trong
máu,
và
nếu
cần,
chụp
phim
“
thyroid
uptake”.
Khi
thăm
khám,
người
cường
tuyến
giáp
trạng
trông
có
vẻ
căng
thẳng,
không
yên.
Da
dẻ
sờ
thấy
ấm
và
ẩm,
lòng
bàn
tay
hồng
đỏ
(palmar
erythema).
Các
móng
tay
hay
bị
tróc
cao
(nailbed
separation),
nhất
là
ở
ngón
đeo
nhẫn.
Tóc
họ
mảnh,
và
mướt
như
lụa
(silky).
Lưỡi
cùng
các
ngón
tay
họ
run
run.
Mắt
họ
tròn
to,
ít
nháy,
khi
nhìn
lên
không
thấy
có
vết
nhăn
vùng
lông
mày.
Các
bắp
thịt
tay
trên,
các
bắp
thịt
đùi
thử
thấy
yếu
(proximal
muscle
weakness).
Những
dấu
chứng
kể
trên
sẽ
thuyên
giảm
với
sự
chữa
trị.
Tuyến
giáp
trạng
khám
thấy
to
đều
(99%
các
trường
hợp
cường
tuyến
giáp
trạng
ở
người
trẻ),
có
khi
nổi
cục,
cũng
có
khi
vẫn
bình
thường,
không
to
(ở
20-50%
các
vị
có
tuổi
bị
cường
giáp
trạng,
tuyến
giáp
trạng
không
to
lên).
Khi
thử
máu,
thấy
chất
T4
trong
máu
lên
cao,
trong
khi
chất
TSH
trong
máu
lại
rất
thấp
(vì
tuyến
não
thùy
thấy
chàng
giáp
trạng
nghe
người
xúi
dại,
đã
sản
xuất
quá
nhiều
T4,
nên
thương
tình,
vội
bớt
tiết
TSH
đi,
chẳng
lẽ
vẫn
tiết
ra
TSH
nhiều
như
trước,
thêm
việc
cho
chàng
giáp
trạng).
Khi
làm
“
Radioactive
Iodine
Uptake”,
phim
chụp
tuyến
giáp
trạng
sau
khi
cho
người
bệnh
dùng
chất
Iodine,
thấy
tuyến
giáp
trạng
hấp
thụ
chất
Iodine
phóng
xạ
nhiều
hơn
bình
thường.
Một
bệnh
hay
gây
những
triệu
chứng
tương
tự
như
bệnh
cường
tuyến
giáp
trạng,
là
bệnh
“căng
thẳng
tâm
thần”
(anxiety):
cũng
bứt
rứt,
hồi
hộp,
hay
run
rẩy
tay
chân,
cảm
thấy
yếu,
mệt...
Thăm
khám
và
thử
máu
có
thể
phân
biệt
hai
bệnh.
Da
người
căng
thẳng
tâm
thần
giá
lạnh,
trong
khi
da
người
cường
tuyến
giáp
trạng
sờ
ấm,
ẩm.
Người
căng
thẳng
tâm
thần,
nếu
xuống
cân,
vì
chán
ăn
(anorexia),
trong
khi
người
cường
tuyến
giáp
trạng
ăn
vẫn
ngon,
ăn
nhiều
là
khác,
mà
vẫn
xuống
cân.
Khi
thử
máu,
T4
và
TSH
của
người
căng
thẳng
tâm
thần
bình
thường,
vì...
họ
có
cường
tuyến
giáp
trạng
đâu.
Chữa
trị
Bệnh
cường
tuyến
giáp
trạng
cần
được
chữa
trị.
Vì
ngoài
những
triệu
chứng
khó
chịu
kể
trên,
về
lâu
về
dài,
bệnh
còn
gây
hư
hoại
các
bắp
thịt
(myopathy),
suy
tim
(heart
failure),
xốp
xương
(osteoporosis).
Có
người
bị
“cơn
bão
giáp
trạng”
thổi
vào
hôn
mê,
rồi
nhanh
chóng
từ
giã
cuộc
đời.
“Bão
giáp
trạng”
(“thyroid
storm”)
là
một
tình
trạng
cường
tuyến
giáp
trạng
đột
nhiên
trở
nặng,
gây
nóng
sốt
cao
102-106
độ
F,
tim
đập
trên
140
nhịp
mỗi
phút,
khiến
cơ
thể
suy
sụp
toàn
diện,
áp
huyết
xuống
thấp,
thần
trí
người
bệnh
hoảng
loạn,
hôn
mê.
Cùng
lúc,
người
bệnh
buồn
nôn,
ói
mửa,
tiêu
chảy,
vàng
da.
Chữa
trị
không
kịp,
không
đúng,
tỉ
lệ
tử
vong
của
“bão
giáp
trạng”
lên
đến
50-60%
(10
người,
5-6
người
chết).
“Bão
giáp
trạng”
có
thể
xảy
ra
khi
người
cường
tuyến
giáp
trạng,
không
chữa
trị
hoặc
chữa
chưa
đúng,
bất
ngờ
phải
mổ
khẩn
cấp,
hoặc
bị
nhiễm
trùng,
bị
chấn
thương...
Có
3
cách
để
chữa
bệnh
cường
tuyến
giáp
trạng:
1.
Dùng
thuốc
uống:
Thuốc
có
tác
dụng
ngăn
sự
tổng
hợp
chất
T4
trong
tuyến
giáp
trạng.
Hiện
ở
Mỹ,
có
hai
thuốc
được
sử
dụng
vào
mục
đích
chữa
trị
này:
Propylthiouracil
(PTU),
và
Tapazole.
Thuốc
PTU
dùng
được
trong
lúc
đang
mang
thai.
Thời
gian
dùng
thuốc
kéo
dài
1-2
năm.
Sự
chữa
trị
bằng
thuốc
hiệu
quả
hơn
ở
những
người
có
tuyến
giáp
trạng
không
phình
to
quá,
mới
phát
bệnh
trong
vòng
6
tháng,
dưới
40
tuổi,
chỉ
cần
dùng
một
lượng
thuốc
thấp
cũng
đủ
đưa
tuyến
về
trạng
thái
bình
thường.
Người
cần
thuốc
với
lượng
cao,
hoặc
trước
đã
từng
chữa
bằng
thuốc,
nay
tái
phát,
chữa
thuốc
sẽ
không
đem
lại
nhiều
kết
quả
mong
muốn.
Và
tất
nhiên,
nếu
bạn
dùng
thuốc
không
đều,
lúc
uống
lúc
không,
kết
quả
cũng
chẳng
khả
quan
lắm.
Thuốc
có
thể
gây
phản
ứng
khó
chịu:
ngứa,
nổi
mẩn,
mề
đay,
đau
khớp,
có
vị
kim
khí
trong
miệng
(metallic
taste).
Những
phản
ứng
này
có
thể
bớt
dần
khi
ta
tiếp
tục
thuốc.
Hay
đang
dùng
thuốc
này,
ta
thử
đổi
sang
thuốc
khác
xem
sao.
Những
phản
ứng
nguy
hiểm
sau
ít
xảy
ra
hơn:
viêm
gan
(hepatitis),
suy
giảm
các
tế
bào
trong
máu
(agranulocytosis),
viêm
các
mạch
máu
(vasculitis
with
lupus-like
syndrome).
Những
trường
hợp
này,
thuốc
cần
được
ngưng,
và
bác
sĩ
sẽ
khuyên
bạn
dùng
những
chữa
trị
khác
thay
vì
tiếp
tục
thuốc.
Do
thế,
khi
đang
uống
thuốc,
nếu
có
triệu
chứng
gì
lạ,
nhất
là
khi
vàng
da,
nóng
sốt,
ớn
lạnh,
đau
cổ
họng,
chảy
máu
nướu
răng,
bạn
nên
ngưng
thuốc
và
cho
bác
sĩ
biết
ngay.
Mục
tiêu
của
việc
dùng
thuốc
là
đưa
các
trị
số
của
chất
T4
và
TSH
trở
về
bình
thường,
khiến
triệu
chứng
của
bạn
thuyên
giảm.
Việc
này
sớm
lắm
cũng
mất
đến
vài
tuần
mới
thực
hiện
được,
nên
trong
thời
gian
đầu,
song
song
với
việc
cho
bạn
uống
PTU
hay
Tapazole,
bác
sĩ
thường
chữa
bạn
thêm
với
thuốc
có
tên
Inderal,
để
giúp
bạn
mau
cảm
thấy
dễ
chịu.
Thoạt
tiên,
khi
mới
dùng
thuốc,
bạn
cần
trở
lại
tái
khám
và
thử
máu
mỗi
1-3
tháng,
để
bác
sĩ
điều
chỉnh
lại
lượng
thuốc
bạn
đang
dùng
nếu
cần,
cho
đến
khi
T4
và
TSH
trở
về
bình
thường.
Sau
đó,
bạn
cần
tái
khám
mỗi
3-4
tháng
trong
suốt
thời
gian
chữa
trị
1
đến
2
năm.
Mỗi
lần
bạn
đến
tái
khám,
bác
sĩ
sẽ
theo
dõi
sức
nặng,
mạch,
áp
huyết
của
bạn,
cũng
như
sờ
nắn,
đo
đạc
tuyến
giáp
trạng
xem
nó
có
nhỏ
đi
hay
lớn
thêm,
mềm
hay
cứng.
Đồng
thời
thử
máu
đo
lại
lượng
T4.
Sau
18-24
tháng
chữa
trị
bằng
thuốc,
1/4
đến
một
nửa
số
người
dùng
thuốc
sẽ
khỏi
bệnh,
số
còn
lại
tái
phát,
thường
trong
vòng
6
tháng
sau
khi
ngưng
thuốc.
Cho
nên,
chữa
trị
xong,
bạn
vẫn
cần
trở
lại
mỗi
4-6
tuần
trong
vòng
3,
4
tháng
đầu
để
bác
sĩ
tiếp
tục
theo
dõi.
6
tháng
sau
khi
dứt
chữa
trị,
bạn
trở
lại
tái
khám
lần
nữa.
Nếu
bạn
khỏe,
lượng
T4,
TSH
trong
máu
bạn
vẫn
bình
thường,
bạn
tái
khám
mỗi
năm
trong
vòng
2-3
năm
đầu,
rồi
sau
có
thể
thưa
dần
đi.
2.
Dùng
chất
phóng
xạ
Iodine:
Cách
chữa
này
hiện
rất
thông
dụng,
dùng
cho
các
vị
lớn
tuổi
bị
cường
tuyến
giáp
trạng,
cho
người
trẻ
đã
chữa
bằng
thuốc
uống
nhưng
nay
tái
phát,
hoặc
cho
người
không
muốn
hay
vì
yếu
quá,
nên
không
chịu
được
giải
phẫu
cắt
tuyến
giáp
trạng.
Chất
phóng
xạ
Iodine
có
tác
dụng
ngăn
chặn
sự
tổng
hợp
chất
T4
trong
tuyến
giáp
trạng,
đồng
thời
làm
các
tế
bào
của
tuyến
không
thể
sản
sinh.
Để
sửa
soạn
cho
việc
chữa
bằng
chất
phóng
xạ
Iodine
131I,
người
bệnh
được
chữa
trước
bằng
thuốc
PTU
hoặc
Tapazole
hầu
ổn
định
tuyến,
đưa
chất
T4
trở
về
bình
thường.
Thuốc
ngưng
4-5
ngày
trước
khi
sự
chữa
trị
bằng
chất
phóng
xạ
Iodine
bắt
đầu.
Thường
chỉ
cần
một
lượng
phóng
xạ
Iodine
uống
vào
là
đủ,
trong
vòng
4-6
tháng
sau,
tuyến
giáp
trạng
sẽ
không
còn
tiết
nhiều
T4
nữa.
Trong
lúc
chờ
đợi,
ta
tiếp
tục
PTU
hoặc
Tapazole
thêm
một
thời
gian,
cho
đến
khi
thử
máu,
thấy
chất
T4
đã
trở
về
bình
thường.
Có
khi,
sau
một
lượng
phóng
xạ
Iodine,
tuyến
vẫn
còn
cứng
đầu,
ta
bồi
thêm
một
lượng
phóng
xạ
thứ
hai.
Cách
chữa
bằng
chất
phóng
xạ
Iodine
131I
giản
dị,
hiệu
quả,
so
ra
lại
rẻ
hơn
phương
pháp
chữa
bằng
thuốc
hoặc
giải
phẫu,
nhưng
không
dùng
được
khi
người
bệnh
đang
mang
thai.
Thỉnh
thoảng,
người
có
mắt
lộ
do
cường
tuyến
giáp
trạng,
sau
khi
chữa
bằng
chất
phóng
xạ
Iodine,
mắt
sẽ
lộ
hơn.
Cho
đến
nay,
người
ta
không
nghĩ
rằng
chất
phóng
xạ
dùng
chữa
bệnh
cường
tuyến
giáp
trạng
sẽ
gây
ung
thư
máu,
các
ung
thư
khác,
hoặc
tàn
tật
cho
hài
nhi
sinh
bởi
những
phụ
nữ
trước
từng
được
chữa
bằng
chất
phóng
xạ
Iodine
131I.
Đa
số
người
chữa
với
chất
phóng
xạ
Iodine,
sau
sẽ
bị
suy
tuyến
giáp
trạng
(hypothyroidism),
và
cần
uống
chất
T4
suốt
đời.
Trị
liệu
với
chất
phóng
xạ
Iodine
xong,
ta
theo
dõi
bằng
cách
đo
chất
T4
trong
máu
mỗi
4-6
tuần
trong
vòng
3-6
tháng
đầu,
rồi
hàng
năm
sau
đó.
3.
Giải
phẫu
cắt
phần
lớn
tuyến
giáp
trạng
(subtotal
thyroidectomy):
Giải
phẫu
cần
trong
trường
hợp
tuyến
lớn
quá,
đè
ép
các
cơ
quan
chung
quanh
gây
khó
chịu
ở
cổ,
khó
thở,
khó
nuốt,
ho.
Giải
phẫu
cũng
dùng
cho
người
uống
thuốc
không
có
hiệu
quả,
song
ngại
ngùng,
không
muốn
chữa
với
chất
phóng
xạ
Iodine.
Một
số
người
chữa
bằng
giải
phẫu,
sau
cũng
suy
tuyến
giáp
trạng.
Suy
tuyến
giáp
trạng,
nếu
xảy
ra,
sẽ
sớm
hơn
trường
hợp
chữa
bằng
chất
phóng
xạ
Iodine,
có
thể
trong
vòng
3-4
tuần
sau
khi
mổ.
Người
bệnh
cần
được
theo
dõi
giống
như
trường
hợp
chữa
trị
bằng
chất
phóng
xạ
Iodine.
Để
tóm
tắt,
cường
tuyến
giáp
trạng
rất
hay
xảy
ra,
đặc
biệt
ở
phụ
nữ.
Bệnh
gây
những
triệu
chứng
khó
chịu,
nhiều
biến
chứng
tai
hại.
Sự
trị
liệu
(bằng
thuốc,
bằng
chất
phóng
xạ
Iodine,
hoặc
giải
phẫu)
cần
đến
sự
hiểu
biết
tường
tận
của
người
bệnh,
về
căn
bệnh
của
mình,
cũng
như
tác
dụng
của
các
cách
chữa.
Cách
nào
đi
nữa,
sau
khi
lành
bệnh,
ta
cũng
vẫn
phải
được
theo
dõi
đều
đặn,
đến
suốt
đời,
vì
bệnh
có
thể
tái
phát,
hoặc,
sau
một
thời
gian,
tuyến
giáp
trạng
lại
đâm
suy.