Khi
không
thể
tiếp
tục
vay
vốn,
dự
án
dở
dang
sẽ
nằm
bất
động,
trang
thiết
bị,
máy
móc
cũng
trở
thành
sắt
vụn.
Nếu
phá
sản,
giải
thể,
sẽ
có
tác
động
lớn,
đó
là
vốn
vay
ngân
hàng
sẽ
khó
có
thể
thu
hồi.
Theo
Bộ
kế
hoạch
và
Đầu
tư,
đến
tháng
9
năm
nay,
có
gần
49.000
DN
đã
giải
thể,
phá
sản,
ngừng
hoạt
động,
ngừng
nộp
thuế.
Trong
đó,
phá
sản,
giải
thể
là
5.800
DN,
khoảng
11.500
DN
ngừng
hoạt
động
và
31.500
DN
ngừng
nộp
thuế.
Như
vậy
bình
quân
một
quý
có
trên
12.000
DN
giải
thể,
phá
sản,ngừng
hoạt
động,
ngừng
nộp
thuế.
Với
tốc
độ
này,
dự
báo
cả
năm
2011
số
DN
lâm
vào
tình
trạng
như
trên
có
thể
chiếm
tới
10%
trong
tổng
số
600.000
DN
cả
nước
hiện
nay.
Trong
nền
kinh
tế
thị
trường,
chuyện
DN
giải
thể,
phá
sản,
ngừng
hoạt
động
là
chuyện
bình
thường,
nhưng
khi
DN
lâm
vào
tình
trạng
này,
những
tác
động
mà
nó
gây
ra
cho
xã
hội
không
phải
là
nhỏ.
Trước
hết,
một
lượng
lớn
những
người
lao
động
sẽ
bị
nợ
lương,
nghỉ
việc.
DN
thì
nợ
bảo
hiểm
xã
hội,
nợ
tiền
điện,
viễn
thông,
nước,
nợ
ngân
hàng...
Chẳng
hạn,
khi
Công
ty
cổ
phần
Thép
Vạn
Lợi
(Hải
Phòng)
phải
ngừng
sản
xuất
thời
gian
qua,
thì
hơn
2.000
lao
động
hiện
không
có
việc
làm,
phải
nghỉ
việc,
bị
nợ
lương.
Vạn
Lợi
hiện
đang
nợ
tiền
điện
hơn
11
tỷ
đồng
và
nợ
Bảo
hiểm
xã
hội
TP.
Hải
Phòng
gần
7
tỷ
đồng.
Ngoài
ra,
DN
này
đang
là
con
nợ
của
6
tổ
chức
tín
dụng,
với
nhiều
món
nợ
xấu,
giá
trị
lớn
lên
tới
hơn
1.000
tỷ
đồng.
Đó
là
thực
tế
khác
xa
với
tương
lai
của
Vạn
Lợi
được
"vẽ"
ra
hơn
một
năm
trước.
Thời
điểm
tháng
7/2010,
trên
sàn
OTC,
quy
mô
Vạn
Lợi
được
"vẽ"
với
14
doanh
nghiệp
thành
viên,
"doanh
số
khoảng
10.000
tỷ
đồng/năm
và
sẽ
đạt
1
tỷ
đôla
vào
năm
2012".
Số
DN
cho
người
lao
động
nghỉ
việc,
nợ
lương,
nợ
bảo
hiểm
xã
hội
ngày
càng
tăng.
Chỉ
tính
riêng
trong
ngành
xây
dựng
đến
tháng
6/2011đã
có
1.118
lao
động
mất
việc
làm;
4.549
lao
động
không
đủ
việc
làm.
Đáng
chú
ý
là
có
66
doanh
nghiệp
nợ
lương
người
lao
động
với
tổng
số
tiền
134
tỷ
đồng;
79
đơn
vị
nợ
tiền
bảo
hiểm
xã
hội
với
tổng
số
tiền
85
tỷ
đồng.
Theo
Phòng
Thương
mại
và
Công
nghiệp
Việt
Nam
(VCCI),
bình
quân
trước
đây,
mỗi
năm
có
khoảng
5.000-7.000
doanh
nghiệp
phá
sản,
giải
thể.
Năm
nay,
ước
khả
năng
con
số
này
sẽ
gấp
rưỡi
đến
gấp
đôi.
Điều
này
cho
thấy
tình
hình
"sức
khỏe"
của
doanh
nghiệp
đang
xấu
đi,
số
phá
sản
giải
thể
vẫn
tăng.
Đây
thực
chất
cũng
có
thể
coi
là
sự
thanh
lọc
nghiệt
ngã
sẽ
diễn
ra
trên
thương
trường.
Trong
thời
kỳ
này,
DN
nào
có
năng
lực
cạnh
tranh
yếu,
quản
trị
kém
và
trang
thiết
bị
lạc
hậu
sẽ
khó
có
thể
tồn
tại,
dồn
nguồn
lực
cho
các
DN
có
năng
lực
hơn.
Tuy
nhiên,
có
một
vấn
đề
làm
nhiều
người
băn
khoăn,
đó
là
trong
số
các
DN
giải
thể
phá
sản,
ngừng
hoạt
động
có
không
ít
DN
vay
vốn
đang
đầu
tư
thì
bị
hạn
mức
tín
dụng
khống
chế.
Do
lạm
phát
tăng
cao,
từ
đầu
năm
2011,
Chính
phủ
đã
có
chủ
trương
thắt
chặt
tín
dụng.
Hạn
mức
tín
dụng
cho
phép
trong
năm
2011
tăng
không
quá
20%.
Nhiều
DN
mặc
dù
đã
được
các
ngân
hàng
chấp
thuận,
phê
duyệt
cho
vay
vốn
và
đã
được
giải
ngân
một
phần,
đang
thực
hiện
dở
dang
phải
dừng
lại
do
ngân
hàng
đã
chạm
ngưỡng
hạn
mức
dẫn
đến
dự
án
bị
ngưng
trệ,
đình
đốn...
Với
những
DN
này,
khi
không
thể
tiếp
tục
vay
vốn,
dự
án
dở
dang
sẽ
nằm
bất
động.
Trang
thiết
bị,
máy
móc
cũng
trở
thành
sắt
vụn.
Nếu
phá
sản,
giải
thể,
sẽ
có
tác
động
lớn,
đó
là
vốn
vay
ngân
hàng
sẽ
khó
có
thể
thu
hồi.
Bên
cạnh
đó,
điều
đáng
nói
là
hiện
nay
nhiều
ngân
hàng
không
dám
siết
nợ
các
DN.
Tại
Hải
Phòng,
các
DN
thép
đang
nợ
ngân
hàng
khoảng
4.000
tỷ
đồng.
Tuy
nhiên,
cho
đến
giờ
ngân
hàng
cũng
không
dám
làm
căng
với
DN.
Vì
khi
cho
vay,
công
tác
thẩm
định
hiệu
quả
dự
án,
thiết
bị
sản
xuất
nhập
khẩu...
có
khi
không
kỹ
lưỡng.
Do
đó,
nhiều
thiết
bị
lạc
hậu,
công
suất
thấp,
tiêu
hao
lớn
được
đưa
về
với
giá
cao.
Khi
thị
trường
gặp
khủng
hoảng,
người
cho
vay
càng
không
dám
thực
hiện
siết
nợ.
Vì
nếu
có
làm
thì
cũng
không
biết
bán
dây
chuyền
ấy
cho
ai
để
thu
hồi
nợ!
Những
khoản
nợ
này
sẽ
phải
chuyển
thành
nợ
xấu.
Gánh
nặng
nợ
xấu
tăng
sẽ
liên
quan
đến
sự
an
toàn
của
các
ngân
hàng
và
là
"
kẻ
thù"
của
nền
kinh
tế.