Báo
cáo
của
Hiệp
hội
Mía
đường
Việt
Nam
về
kết
quả
thực
hiện
Quyết
định
26/2007/TTg
của
Thủ
tướng
Chính
phủ
cho
thấy
ngành
mía
đường
gần
như
thất
bại
toàn
diện
ở
tất
cả
chỉ
tiêu
đề
ra
(ngoại
trừ
tổng
công
suất
các
nhà
máy).
Bất
cập
quy
hoạch,
đầu
tư
vùng
nguyên
liệu
Vụ
mùa
2011-2012
cả
nước
có
39
nhà
máy
đang
hoạt
động
với
tổng
công
suất
thiết
kế
lên
tới
129.200
tấn
mía/ngày,
vượt
xa
mục
tiêu
105.000
tấn
mía/ngày
của
Quyết
định
26.
Tuy
nhiên
điều
đáng
lo
là
khả
năng
cung
ứng
của
vùng
mía
nguyên
liệu
lại
rất
thấp
so
với
tổng
công
suất
nhà
máy
đường.
Liên
tục
trong
các
năm
qua,
ngành
mía
đường
luôn
đau
đầu
vì
tình
trạng
tranh
giành
mía
nguyên
liệu,
dẫn
đến
việc
thu
mua
cả
mía
chất
lượng
thấp,
đẩy
giá
mía
lên
cao,
chi
phí
vận
chuyển
và
trung
gian
tăng
cao
không
đáng
có,
góp
phần
đẩy
giá
thành
sản
xuất
các
nhà
máy
lên
mức
cao
hơn
nhiều
so
với
khu
vực.
Thống
kê
của
Viện
Kinh
tế
nông
nghiệp
cho
thấy
giá
thành
sản
xuất
đường
ở
nước
ta
đang
cao
hơn
25-40%
so
với
Thái
Lan,
trong
đó
cao
nhất
là
ở
Tây
Nam
bộ,
khoảng
14.200
đồng/kg.
Phải
thừa
nhận
một
thực
tế
đáng
buồn,
Việt
Nam
là
nước
nông
nghiệp
song
mấy
chục
năm
qua
không
hề
có
sự
đầu
tư
xứng
đáng
cho
bộ
giống
mía
quốc
gia
như
Thái
Lan
và
Philippines
đã
làm.
Thiếu
cơ
cấu
giống
mía
phù
hợp
khiến
xảy
ra
tình
trạng
mía
chín
đồng
loạt
khi
vào
chính
vụ
và
rất
khan
hiếm
vào
đầu
và
cuối
vụ,
điều
này
làm
dư
thừa
và
thiếu
mía
cục
bộ
-
mầm
mống
gây
ra
tình
trạng
tranh
giành
mía.
Khi
vào
chính
vụ,
mía
chín
đồng
loạt,
dù
các
nhà
máy
đường
chạy
hết
công
suất
nhưng
nguyên
liệu
mía
vẫn
dồn
ứ
và
nông
dân
chỉ
biết
khóc
ròng.
Trong
khi
đó,
toàn
vụ
lại
thiếu
mía.
Lúc
đầu
vụ
mặc
dù
mía
chưa
chín,
chữ
đường
thấp
nhưng
các
nhà
máy
vẫn
tranh
nhau
mua,
ép
mía
sớm
để
bù
đắp
cho
lượng
thiếu
hụt
lúc
cuối
mùa.
Vòng
luẩn
quẩn
cứ
lặp
đi
lặp
lại
năm
này
qua
năm
khác
đang
làm
suy
yếu
năng
lực
cạnh
tranh
của
ngành
mía
đường
Việt
Nam.
Kinh
nghiệm
từ
Thái
Lan
Vào
những
năm
1984-1988,
ngành
mía
đường
Thái
Lan
cũng
gặp
tình
trạng
tương
tự,
lúc
đó
các
nhà
máy
đường
tập
trung
chủ
yếu
ở
khu
vực
trung
tâm
Thái
Lan,
hay
thiếu
mía
nguyên
liệu
cục
bộ.
Để
giải
quyết
vấn
đề
này,
Chính
phủ
Thái
Lan
đã
khuyến
khích
các
nhà
máy
đường
chuyển
về
khu
vực
Đông
Bắc
với
các
chính
sách
ưu
đãi
để
sáp
nhập,
tăng
công
suất
nhà
máy,
đồng
thời
đầu
tư
đồng
bộ
cho
vùng
mía
nguyên
liệu.
Chính
phủ
ngưng
cấp
giấy
phép
cho
các
nhà
máy
đường
mới,
nhưng
chủ
sở
hữu
các
nhà
máy
đường
có
thể
đóng
cửa
nhà
máy
để
xây
dựng
lại
nhà
máy
mới
có
công
suất
lớn
hơn
tại
khu
vực
khác.
Đây
là
những
thay
đổi
quan
trọng
đối
với
cấu
trúc
ngành
mía
đường,
phân
phối
lại
sản
lượng
đầu
ra,
dẫn
đến
sản
lượng
mía
tăng
mạnh,
đặc
biệt
là
tại
khu
vực
Đông
Bắc.
Vào
những
năm
1982-1985,
sản
lượng
mía
tại
khu
vực
trung
tâm
Thái
Lan
đạt
khoảng
13,2
triệu
tấn,
chiếm
58%
sản
lượng
cả
nước;
đến
vụ
mùa
2008-2009
sản
lượng
mía
khu
vực
này
lên
đến
21,78
triệu
tấn,
song
chỉ
còn
chiếm
tỷ
trọng
33%
sản
lượng
cả
nước.
Cùng
thời
điểm
đó
sản
lượng
mía
khu
vực
Đông
Bắc
đã
lên
đến
22,75
triệu
tấn,
tăng
tỷ
trọng
từ
14%
lên
34%
sản
lượng
cả
nước.
Hiện
tại
Thái
Lan
có
46
nhà
máy
mía
đường
với
tổng
công
suất
thiết
kế
880.000
tấn
mía/ngày,
công
suất
bình
quân
khoảng
19.130
tấn
mía/ngày.
Dự
kiến
vụ
mùa
2011-2012
tổng
công
suất
thiết
kế
sẽ
tiếp
tục
được
nâng
lên
hơn
900.000
tấn
mía/ngày.
Tại
Thái
Lan,
nhiều
nhà
máy
đường
thuộc
sở
hữu
tư
nhân,
có
chuỗi
nhà
máy
đạt
mức
công
suất
rất
lớn,
lớn
nhất
phải
kể
đến
hệ
thống
các
nhà
máy
của
Mitr
Phol
Group
gồm
5
nhà
máy
với
tổng
công
suất
130.500
tấn
mía/ngày
và
Thai
Roong
Ruang
Group
gồm
7
nhà
máy
với
tổng
công
suất
121.800
tấn
mía/ngày.
Chính
hình
thức
sở
hữu
này
đã
giúp
tránh
được
tình
trạng
tranh
giành
nguyên
liệu
giữa
các
nhà
máy
cùng
hệ
thống,
đồng
thời
đạt
được
hiệu
quả
kinh
tế
theo
quy
mô
cao
nhất.
Từ
bài
học
của
Thái
Lan
cho
thấy,
bên
cạnh
việc
phát
triển
bộ
giống
mía
phù
hợp
(trách
nhiệm
chính
thuộc
về
Bộ
Nông
nghiệp
-
Phát
triển
nông
thôn),
ngành
mía
đường
Việt
Nam
cần
giải
được
bài
toán
đảm
bảo
nguồn
cung
mía
nguyên
liệu
đủ
cho
công
suất
ngành.
Hiện
nay
vùng
mía
nguyên
liệu
chỉ
đáp
ứng
khoảng
70-80%
công
suất
các
nhà
máy,
do
đó
tăng
công
suất
các
nhà
máy
mà
không
phát
triển
kịp
vùng
nguyên
liệu
chỉ
làm
vấn
đề
thêm
trầm
trọng.
Bên
cạnh
việc
tăng
công
suất
nhà
máy
đường
ở
những
vùng
mía
nguyên
liệu,
điều
rất
quan
trọng
là
phải
sắp
xếp
lại
vùng
nguyên
liệu
của
các
nhà
máy
thông
qua
biện
pháp
sáp
nhập
nhà
máy.