Những
kết
quả
nghiên
cứu
thực
tế
của
nhiều
nhà
khoa
học
về
mô
hình
“Cánh
đồng
mẫu
lớn
liên
kết
bởi
nông
hộ
nhỏ”,
mô
hình
“Liên
kết
trực
tiếp
và
thường
xuyên
giữa
doanh
nghiệp
với
nông
dân
ở
An
Giang’;
“Ngành
hàng
sản
xuất
lúa
gạo
xuất
khẩu”;
“Chuỗi
giá
trị
gạo
xuất
khẩu”
được
phân
tích
khá
đầy
đủ
về
những
mặt
làm
được
và
chưa
làm
được
của
cuộc
đua
tăng
vụ….
Nghiên
cứu
nào
cũng
cho
kết
quả:
Nông
dân
thua
thiệt!
Khi
việc
tiêu
thụ
lúa
dễ
dàng
bị
dìm
giá
thì
nông
dân
cũng
cứ
trồng
lúa
do
không
thể
làm
gì
khác.
Họ
không
biết
việc
làm
của
mình
ảnh
hưởng
gì
tới
biến
đổi
khí
hậu,
chất
lượng
nguồn
nước…
Thời
tiết
không
quá
khó
trước
sự
chọn
lựa
sinh
kế
gắn
với
lúa
nước.
Nhưng
nếu
nay
mai
Campuchia,
Lào,
Thái
Lan,
Trung
Quốc
thi
nhau
làm
đập
thủy
điện,
nguồn
nước
trở
thành
tài
sản
riêng
của
các
nước
thượng
nguồn,
việc
sản
xuất
ở
hạ
nguồn
có
muốn
tăng
vụ
cũng
không
được
nữa.
Xâm
nhập
mặn
sẽ
làm
cho
việc
trồng
những
loại
cây
trái
khác
cũng
khó
hơn.
Trong
chuỗi
giá
trị
lúa
gạo,
cái
gốc
là
nông
dân,
nhưng
“cái
gốc”
này
từng
bị
thiệt
đơn
thiệt
kép.
Người
nông
dân
từng
là
người
bạn
liên
minh
công
–
nông,
nếu
là
người
trồng
lúa
thì
việc
bảo
đảm
mức
lời
30%
mỗi
vụ
cũng
đã
khó.
Nếu
mỗi
năm
làm
ba
vụ,
mức
lời
lý
thuyến
mỗi
vụ
30%
đã
là
quá
thấp
lại
phải
chịu
áp
lực
giá
leo
thang
liên
tục,
chưa
kể
30-40
khoản
đóng
góp
ở
nông
thôn.
Hai
khoản
nông
dân
phải
đóng
nặng
nhất
là
xây
dựng
giao
thông
nông
thôn
và
trường
học,
bình
quân
672-
872
nghìn
đồng/hộ/năm.
Họ
còn
phải
đóng
góp
đối
ứng
để
thực
hiện
19
tiêu
chí
phát
triển
nông
thôn.
Nếu
trên
cơ
sở
mỗi
hộ
4
người
thì
một
năm
mỗi
nông
dân
chỉ
đạt
thu
nhập
trung
bình
4,2
triệu
đồng,
tương
đương
200
USD.
Đây
cũng
là
thu
nhập
bình
quân
đầu
người
của
Việt
Nam
trước
thời
kỳ
đổi
mới.
Hiện
nay
thu
nhập
bình
quân
đầu
người
của
Việt
Nam
là
hơn
1.600
USD/năm,
hay
sự
dãn
cách
về
thu
nhập
nông
thôn
và
thành
thị
ngày
một
nhiều.
Công
cuộc
tái
cơ
cấu
nông
nghiệp,
bao
gồm
sản
xuất
lúa
hàng
hóa,
có
nội
dung
trồng
cây
gì,
nuôi
con
gì,
công
nghệ
nào
đang
được
đề
cập
nhiều
hơn.
Tuy
nhiên,
hãy
xem
đại
đa
số
người
dân
gắn
bó
suốt
đời
này
sang
đời
khác
với
cây
lúa.
Điều
có
thể
lý
giải
vì
sao
nông
dân
ĐBSCL
cứ
làm
lúa
và
tỷ
lệ
giống
lúa
gốc
OM
(Viện
lúa
ĐBSCL
ở
Ô
Môn,
lúa
OM
đã
được
cấp
bằng
thương
hiệu
quốc
gia)
lên
60%
và
giống
IR50404
tới
trên
21%
diện
tích
lúa.
Làm
một,
hai
hay
ba
vụ
lúa
cũng
phải
tính
đến
thu
nhập
thuần
của
nông
dân
trước,
rồi
mới
để
tăng
số
lượng
lúa
hàng
hóa
có
số
gạo
xuất
khẩu
thứ
nhì
trên
thế
giới...
Viện
Lúa
đồng
bằng
sông
Cửu
Long
vào
đầu
năm
2013
đã
phối
hợp
với
13
Sở
Nông
nghiệp
và
PTNT
khảo
sát
và
thống
kê
việc
sử
dụng
giống
lúa.
Kết
quả
cho
thấy
tỷ
lệ
diện
tích
dùng
giống
IR50404
ở
tỉnh
Đồng
Tháp,
nơi
có
nhiều
cơ
sở
chế
biến
bánh
bún,
là
41
đến
58%;
tỉnh
dùng
ít
nhất
thấy
ở
Bạc
Liêu,
Cà
Mau:
6
–
9%;
bình
quân
toàn
vùng
trên
21%.
Cứ
mỗi
khi
xuất
khẩu
khó,
doanh
nghiệp
xuất
khẩu
gạo
lại
đổ
lỗi
do
chất
lượng
gạo
của
ta
kém,
giống
IR50404
lại
phải
“lên
bờ
xuống
ruộng”,
thương
lái
mua
“dìm
giá”
để
bán
cho
doanh
nghiệp
xuất
khẩu
trực
tiếp.
Nhưng
phải
nói
rằng
dù
có
làm
gạo
thuần
thì
qua
cái
hệ
thống
đấu
trộn
của
các
thương
nhân
cũng
thành
gạo
mà
bản
thân
nhà
xuất
khẩu
không
bao
giờ
nấu
cho
nhà
mình
ăn.
Giá
lúa
bất
lợi
liên
tục
sẽ
là
nguyên
nhân
khiến
người
trồng
lúa
phải
thay
đổi.
Trong
ngành
hàng
lúa
gạo,
nông
dân
là
“Gốc”
của
ngành
hàng,
nhưng
gốc
không
bền
thì
làm
sao
ngành
hàng
đứng
vững
được.
Tất
nhiên,
muốn
cả
ngành
hàng
lúa
gạo
đạt
hiệu
quả
cao
phải
làm
theo
lời
khuyên
bảo
của
ông
cha
ta:
“Phi
nông
bất
AN;
Phi
công
bất
PHÚ;
Phi
thương
bất
HOẠT;
Phi
trí
bất
HƯNG”
(Lê
Quý
Đôn,
1726
-
1784).
Vì
diện
tích
sản
xuất
lúa
của
mỗi
gia
đình
lại
quá
nhỏ
lẻ,
nên
muốn
thu
nhập
cao
phải
luân
canh
tăng
vụ
lúa-
ngô/cây
đậu
đỗ,
lúa
–
tôm/cá,
đa
canh,
phát
triển
ngành
nghề.
Nhờ
tài
nguyên
khí
hậu
nhiệt
đới,
á
nhiệt
đới
và
cả
ôn
đới
ở
vùng
núi
cao;
lại
có
những
vùng
sinh
thái
nông
nghiệp
rất
đa
dạng
để
thực
hiện
đa
dạng
hóa
sản
xuất,
trong
đó
có
cây
lương
thực
không
chỉ
có
lúa,
ngô,
mà
còn
có
tập
đoàn
cây
ăn
củ;
cây
công
nghiệp
lương
thực
lạc,
sắn..cây
lâm
nghiệp
lương
thực
như
xa
kê
hay
bánh
mì;
hồ
đào
hay
óc
chó,
mít
ăn
hạt..sẵn
sàng
thích
ứng
với
biến
đổi
khí
hậu.
Nông
dân
ĐBSCL
có
tập
quán
sản
xuất
nông
sản
hàng
hóa.
Nếu
thấy
bất
lợi,
hoặc
chỉ
nghĩ
rằng
trồng
cây
này
có
lời
hơn
cây
kia,
họ
sẽ
chặt
bỏ
cây
này
trồng
cây
mới;
lên
liếp
ruộng
lúa
để
làm
vườn
hay
hạ
thấp
đất
vườn
gieo
cấy
lại
lúa.
Tình
thế
tiến
thoái
lưỡng
nan
của
nông
dân
trồng
lúa
là
diện
tích
nhỏ
lẻ
manh
mún
sao
có
thể
làm
giàu
được,
đến
chi
tiêu
hàng
ngày
cũng
còn
khó!
Trồng
rau
màu,
như
ngô
(bắp),
đậu
đỗ,
củ
quả..,
cũng
không
đơn
giản
nếu
không
chuẩn
bị
thị
trường.
Chỉ
khi
có
doanh
nghiệp
bao
tiêu
sản
phẩm,
chế
biến
hoặc
xuất
tươi
theo
công
nghệ
hoàn
hảo
thì
việc
chuyển
dịch
mới
thoát
cảnh
vết
xe
đổ
như
việc
trồng
rồi
chặt
những
loại
cây
khác.
Theo
TS
Võ
Hồng
Dũng,
giám
đốc
VCCI
-
Chi
nhánh
Cần
Thơ,
vào
năm
1990,
sản
xuất
nông
nghiệp
(khu
vực
I)
luôn
đóng
góp
cho
GDP
khoảng
40%;
từ
năm
2005
đến
nay
khoảng
20%.
Từ
năm
1995
đến
2000,
đầu
tư
cho
nông
nghiệp
khoảng
14%
tổng
số
vốn
đầu
tư,
đến
năm
2009
chỉ
còn
6,4%!
Trong
khi
đất
nông
nghiệp
bị
thu
hồi
ngày
một
nhiều,
các
khoản
thu
từ
nông
hộ
nhiều,
giá
cả
xuống
thấp
sẽ
khiến
người
trồng
lúa
não
nề
hơn..
Nông
dân
chỉ
phấn
khởi
khi
thu
nhập
thuần
của
họ
tăng.
Trong
khi
đó,
hằng
năm
Nhà
nước
chỉ
bỏ
ra
hàng
trăm
tỷ
đồng
để
hỗ
trợ
lãi
suất
cho
doanh
nghiệp
nhân
danh
tạm
trữ
lúa
gạo
cho
nông
dân.
Trong
cuộc
họp
bàn
giải
pháp
tháo
gỡ
khó
khăn
về
sản
xuất
và
tiêu
thụ
lúa
gạo,
thủy
sản
vùng
ĐBSCL
ngày
5/6/2013
vừa
qua
ở
Cần
Thơ,
Phó
Thủ
tướng
Vũ
Văn
Ninh
khẳng
định:
“Mục
tiêu
tương
lai
là
tăng
hiệu
quả
sản
xuất,
cải
thiện
hơn
nữa
đời
sống
của
người
dân”.
Trong
khi
đó,
chủ
tịch
Hiệp
hội
lương
thực
thẳng
thắn
từ
chối
việc
thực
hiện
chủ
trương
xây
dựng
cánh
đồng
mẫu
lớn.
Sự
từ
chối
này
sẽ
khiến
nông
dân
bất
an!
Rồi
đây
bà
con
sẽ
không
mặn
mà
chuyện
tăng
vụ
trồng
lúa
nữa
nếu
không
tái
sản
xuất
nông
nghiệp
đúng
hướng.
Giảm
diện
tích
trồng
lúa
(vụ
hè
thu
2013)
Tiền
Giang:
Nông
dân
chỉ
gieo
sạ
78.443ha
lúa
hè
thu,
giảm
hơn
2.620ha
so
cùng
kỳ
năm
trước.
Bến
Tre:
chỉ
gieo
sạ
20.056ha
lúa
hè
thu,
giảm
9,8%
so
với
cùng
kỳ.
An
Giang
chuyển
hơn
7.100ha
đất
trồng
lúa
sang
trồng
cây
khác,
hoặc
luân
canh
cây
lúa
với
bắp,
đậu
nành,
các
loại
rau
củ
quả…
Long
An,
khoảng
2.890ha
đất
trồng
lúa
đạt
hiệu
quả
thấp
đã
chuyển
sang
trồng
các
loại
cây
nguyên
liệu,
rau
màu.
An
Giang
và
Đồng
Tháp:
Trồng
bắp
lai
có
lợi
nhuận
gấp
gần
2,8
–
4,5
lần
so
với
trồng
lúa
và
trồng
đậu
nành
có
lời
gấp
hơn
sáu
lần
so
với
trồng
lúa,
chắc
chắn
cây
trồng
khác
sẽ
thay
thế
lúa.
Nguồn
SGTT
|
GSTS
Nguyễn
Văn
Luật