Tại
An
Giang,
một
thành
trì
quan
trọng
của
ngành
công
nghiệp
lúa
gạo
Việt
Nam,
năng
suất
thu
hoạch
đã
tăng
gấp
bốn
lần
so
với
bốn
thập
kỷ
trước.
Ngoài
sự
phát
triển
của
những
giống
lúa
năng
suất
cao,
nguyên
nhân
hàng
đầu
của
thành
tựu
này
là
do
hệ
thống
“đê
bao
tháng
Tám”
giúp
kéo
dài
thời
gian
cho
phép
trồng
lúa
từ
tháng
6
tới
tháng
8,
để
người
nông
dân
có
thể
trồng
thêm
một
vụ
lúa
thứ
hai.
Sau
đó,
những
hệ
thống
đê
lớn
hơn
được
xây
dựng
trong
thập
kỷ
1990
và
2000,
cho
phép
bà
con
trồng
thêm
một
vụ
lúa
thứ
ba
trên
cùng
một
diện
tích.
Kết
quả
là
chỉ
trong
vòng
một
thế
hệ,
Việt
Nam
chuyển
mình
từ
một
nước
nghèo,
nơi
Nhà
nước
phải
chia
khẩu
phần
gạo
và
nhiều
mặt
hàng
khác
theo
nhân
khẩu,
trở
thành
một
nước
thu
nhập
trung
bình
thấp,
và
là
một
trong
những
nước
xuất
khẩu
gạo
lớn
nhất
trên
thế
giới.
Tuy
nhiên,
một
số
nhà
khoa
học
cho
rằng
việc
tiếp
tục
xây
dựng
đê
kè,
kênh
mương
thủy
lợi
trên
khắp
đồng
bằng
sông
Cửu
Long
và
dọc
ven
biển
Đông
đang
tác
động
tiêu
cực
tới
hệ
thống
cân
bằng
sinh
thái
phức
tạp
của
dòng
sông.
Ví
dụ
ở
các
vùng
thượng
lưu,
đê
ngăn
các
dòng
lũ
thượng
nguồn,
khiến
các
vùng
canh
tác
và
nuôi
trồng,
đánh
bắt
thủy
sản
bị
mất
đi
nguồn
dinh
dưỡng
quan
trọng
cho
đất.
Các
hóa
chất
dùng
trong
nông
nghiệp
làm
ô
nhiễm
kênh
mương
thủy
lợi,
gây
axit
hóa
nước
và
đất,
điều
mà
các
nhà
khoa
học
coi
là
một
trong
những
nguyên
nhân
giảm
lượng
thủy
sản,
và
nhìn
chung
làm
mất
đi
tính
đa
dạng
sinh
học
trong
tự
nhiên.
Dọc
ven
biển
phía
Nam,
hệ
thống
đê
và
các
cửa
xả
-
được
xây
dựng
nhằm
giúp
nông
dân
trồng
lúa
trong
nước
ngọt,
hạn
chế
nước
mặn
trào
ngược
trong
mùa
khô
–
đã
gây
hạn
chế
sự
trao
đổi
chất
hữu
cơ
giữa
môi
trường
nước
ngọt
và
nước
mặn,
làm
chết
nhiều
dừa
nước,
loài
cây
có
nhiều
chức
năng
hữu
ích
ở
địa
phương.
Đồng
thời,
những
con
đê
ven
biển
gây
ảnh
hưởng
tới
sự
cân
bằng
dinh
dưỡng
từ
các
dòng
nước
ngọt
và
nước
mặn,
gây
nguy
cơ
lớn
cho
những
cánh
rừng
đước.
Các
nhà
khoa
học
cho
rằng
nếu
những
cánh
rừng
đước
chết,
Việt
Nam
sẽ
càng
bị
đe
dọa
bởi
các
trận
bão
và
nước
biển
dâng
do
biến
đổi
khí
hậu.
Các
vấn
đề
môi
trường
to
lớn
này
đã
thúc
đẩy
các
nhà
khoa
học
Việt
Nam
và
quốc
tế
kêu
gọi
Chính
phủ
thực
hiện
các
biện
pháp
giúp
hài
hòa
lợi
ích
kinh
tế
và
môi
trường
trong
dài
hạn.
Đã
có
ý
kiến
đề
xuất
các
giải
pháp
như
loại
bỏ
vụ
lúa
thứ
ba,
tháo
ngập
nước
một
cách
có
kiểm
soát
ở
những
châu
thổ
thượng
lưu
nhằm
thúc
đẩy
sự
bồi
lắng
phù
sa,
đồng
thời
di
chuyển
các
con
đê
biển
vào
sâu
hơn
trong
đất
liền
nhằm
duy
trì
những
cánh
rừng
đước,
và
tạo
ra
“những
đường
bờ
di
động”
(“dynamic
shorelines”)
cho
phép
trao
đổi
tốt
hơn
giữa
các
hệ
thống
nước
ngọt
và
nước
mặn.
Việt
Nam
đang
đứng
trước
một
lựa
chọn
khó
khăn:
tiếp
tục
thúc
đẩy
sản
lượng
lúa
gạo
và
chịu
những
hậu
quả
môi
trường
và
xã
hội
do
suy
thoái
đất
màu
và
hệ
sinh
thái,
hay
chấp
nhận
loại
trừ
vụ
lúa
thứ
ba
và
hạn
chế
ham
muốn
đầu
tư
xây
dựng
thêm
nhiều
hệ
thống
hạ
tầng
thủy
lợi.
Có
nhiều
lý
do
khiến
Việt
Nam
có
thể
lựa
chọn
tiếp
tục
duy
trì
chính
sách
thúc
đẩy
sản
lượng
lúa
gạo,
như
nhu
cầu
từ
dân
số
gia
tăng
và
sức
ép
từ
nền
kinh
tế
đòi
hỏi
gia
tăng
xuất
khẩu.
Trong
khi
đó,
các
doanh
nghiệp
Nhà
nước
có
quyền
lợi
gắn
với
xuất
khẩu
gạo
cũng
có
tiếng
nói
ảnh
hưởng
mạnh
mẽ
tới
chính
sách
nông
nghiệp
của
Nhà
nước.
“Mấu
chốt
là
trả
lời
câu
hỏi:
ai
sẽ
chịu
các
thiệt
hại”và
“liệu
Việt
Nam
còn
muốn
là
nhà
xuất
khẩu
gạo
hàng
đầu,
hay
quyết
định
tập
trung
đối
diện
với
các
vấn
đề
khác”,
nhận
định
từ
Martijn
van
de
Groep,
nhà
kinh
tế
người
Hà
Lan
đang
quản
lý
dự
án
Quy
hoạch
Châu
thổ
Sông
Cửu
Long
(Mekong
Delta
Plan)
có
sự
hợp
tác
giữa
Hà
Lan
và
Việt
Nam
nhằm
xây
dựng
một
lộ
trình
phát
triển
vùng
trong
100
năm.
Châu
thổ
sông
Mekong
nằm
trên
đất
Cambodia
và
Việt
Nam
có
diện
tích
tương
đương
nước
Thụy
Sĩ,
là
một
hệ
thống
thủy
văn
phức
tạp.
Con
sông
Mekong
bắt
nguồn
từ
cao
nguyên
Tây
Tạng,
chảy
qua
Trung
Quốc
và
Lào
trước
khi
tách
thành
chín
nhánh
đổ
ra
Biển
Đông.
Vào
mỗi
mùa
thu,
nước
ngập
bờ
và
bồi
lắng
phù
sa
tạo
nguồn
dinh
dưỡng
dồi
dào
cho
đất.
Trong
khoảng
từ
tháng
10
tới
tháng
4
hằng
năm,
nước
biển
trào
ngược
vào
sâu
trong
đất
liền
tới
gần
30
km.
Cuối
thập
kỷ
1960,
Mỹ
và
Viện
Nghiên
cứu
Lúa
gạo
Quốc
tế
đã
đưa
vào
miền
Nam
Việt
Nam
những
giống
lúa
lai
và
xây
dựng
một
số
kênh
và
đê
thủy
lợi.
Những
giống
lúa
mới
giúp
tăng
năng
suất
đáng
kể,
trong
khi
các
con
đê
cho
phép
nông
dân
ngăn
giữ
nước
lụt
vào
mùa
mưa,
hoặc
bơm
nước
vào
đồng
trong
mùa
hạn.
Chương
trình
kiểm
soát
thủy
văn
được
Việt
Nam
thúc
đẩy
mạnh
mẽ
trong
thập
kỷ
1990,
khi
Chính
phủ
xây
dựng
một
hệ
thống
những
con
đê
cao
hơn
che
chắn
các
cánh
đồng,
và
xây
dựng
những
cửa
xả
ở
các
cửa
sông
và
kênh.
Những
cửa
ngăn
ở
cả
thượng
lưu
và
hạ
lưu
cho
phép
kiểm
soát
lượng
nước
chảy
sang
từ
Cambodia.
Trên
khắp
vùng
châu
thổ,
những
con
đê
được
xây
cao
trên
mực
nước
lũ
trung
bình,
giúp
giảm
thiểu
tác
động
của
nước
lũ
và
nước
mặn
đối
với
hoa
màu,
đồng
thời
cho
phép
trồng
trọt
quanh
năm
trong
điều
kiện
khí
hậu
gió
mùa.
Tuy
nhiên,
tổn
thất
cho
môi
trường
đang
gia
tăng,
theo
lời
Jake
Brunner,
người
điều
phối
chương
trình
sông
Mekong
của
tổ
chức
International
Union
for
Conservation
of
Nature.
Sự
suy
thoái
chất
lượng
nước
mang
tính
lâu
dài
đã
hủy
hoại
một
số
loài
cá
bản
địa,
ông
nói.
Trong
khi
đó,
do
nước
chảy
từ
thượng
lưu
suy
giảm,
nước
mặn
xâm
ngược
từ
hạ
lưu
tăng
lên.
Việc
xây
dựng
những
con
đê
cao
ở
các
vùng
trồng
hoa
màu
gây
trở
ngại
cho
việc
trao
đổi
chất
dinh
dưỡng
trong
đất.
Những
cánh
đồng
nằm
sâu
trong
đê
càng
khó
nhận
được
những
chất
hữu
cơ
cần
thiết
từ
nguồn
nước,
lý
giải
từ
Charles
Howie,
nhà
sinh
học
của
Đại
học
Nông
nghiệp
Hoàng
gia
Anh
hiện
đang
làm
việc
tại
Đại
học
An
Giang.
Howie
cho
biết
với
việc
canh
tác
ba
vụ,
năng
suất
lúa
ở
An
Giang
trung
bình
trên
mỗi
hecta
ngày
nay
đạt
tới
22
tấn/năm,
nhưng
lượng
hóa
chất
phải
sử
dụng
ngày
càng
nhiều.
Bên
cạnh
đó,
thiếu
phù
sa
bồi
đắp
không
chỉ
hủy
hoại
chất
lượng
đất
mà
còn
gây
lún
nền.
Dọc
bờ
biển,
việc
xây
dựng
những
con
đê
cho
phép
nông
dân
chuyển
từ
trồng
lúa
sang
nuôi
tôm,
vốn
đòi
hỏi
môi
trường
nước
lợ.
Hiện
nay,
hai
loại
hình
này
vẫn
khó
cùng
tồn
tại
hài
hòa:
việc
nuôi
tôm
bên
trong
đê
khiến
chất
thải
ngày
càng
tích
tụ
thay
vì
được
thải
ra
biển.
Theo
một
đề
tài
nghiên
cứu
của
Lê
Anh
Tuấn
từ
Đại
học
Cần
Thơ
và
một
nhóm
các
nhà
nghiên
cứu
quốc
tế,
việc
nước
lợ
được
bơm
ngày
càng
nhiều
vào
đất
liền
đã
khiến
nước
mặn
chảy
ngược
vào
hệ
thống
kênh
mương
thủy
lợi,
làm
ô
nhiễm
các
cánh
đồng
lúa,
giếng,
và
ngấm
sâu
xuống
các
mạch
nước
ngầm
của
châu
thổ.
Trước
tình
trạng
các
cánh
rừng
đước
ven
biển
bị
hủy
hoại,
chính
phủ
của
Đức
và
Úc
–
hợp
tác
với
Bộ
NN&PTNT
Việt
Nam
–
đã
cam
kết
tài
trợ
tới
28
triệu
Euro
(36,2
triệu
USD)
cho
các
dự
án
thích
nghi
với
biến
đổi
khí
hậu.
Trong
đó
có
một
dự
án
nhằm
xây
những
hàng
rào
tự
nhiên
làm
từ
thân
cây,
nhằm
chắn
sóng
chống
xói
mòn
và
giúp
những
cây
đước
non
bén
rễ
để
tồn
tại
trong
điều
kiện
bão
biển
gia
tăng.
Tuy
nhiên,
việc
chính
quyền
gần
đây
xây
ngày
càng
nhiều
những
con
đê
bê
tông
chống
xói
mòn
sẽ
gây
nguy
cơ
hủy
hoại
nghiêm
trọng
hệ
sinh
thái
của
những
cánh
rừng
đước,
theo
lời
Andrew
Wyatt,
một
nhà
nghiên
cứu
tại
Viện
Sinh
học
Nhiệt
đới
ở
TP.
HCM.
Hiện
nay
sự
can
thiệp
của
con
người
vào
châu
thổ
sông
Mekong
chưa
phải
là
quá
nhiều
nếu
so
với
châu
thổ
sông
Mississippi
và
một
số
châu
thổ
khác
trên
thế
giới,
nơi
những
hệ
thống
hạ
tầng
lớn
đã
làm
sụt
nền
đất
và
nhiều
vấn
đề
môi
trường
khác.
Nhưng
các
nhà
khoa
học
lo
ngại
rằng
châu
thổ
sông
Mekong
đã
bắt
đầu
có
xu
hướng
giống
với
các
châu
thổ
ở
Mỹ
và
Hà
Lan,
nơi
các
nhà
quản
lý
đến
nay
mới
nhận
ra
hậu
quả
từ
việc
xây
dựng
quá
nhiều
hệ
thống
hạ
tầng
cho
mục
tiêu
ngăn
lũ
và
thủy
lợi.
Bên
cạnh
đó,
các
chuyên
gia
cho
rằng
điều
nghịch
lý
là
người
nông
dân
ở
châu
thổ
sông
Mekong
không
được
hưởng
lợi
ích
đáng
kể
từ
việc
canh
tác
tăng
vụ.
Theo
Ngân
hàng
Thế
giới,
hiệu
quả
sản
xuất
giảm
khi
tăng
từ
2
vụ
lên
3
vụ
mỗi
năm.
Lúa
gạo
sản
xuất
ra
với
chất
lượng
thấp,
chỉ
bán
được
ở
giá
16
cent/kg,
và
phần
doanh
thu
tăng
thường
chỉ
đủ
bù
phần
chi
phí
mua
thêm
thuốc
trừ
sâu
và
phân
bón.
Chuyên
gia
Brunner
nhận
định,
“chính
sách
ưu
tiên
hàng
đầu
cho
lúa
gạo
chính
là
hi
sinh
quyền
lợi
người
nghèo
vì
người
giàu.
Nó
hoàn
toàn
không
hợp
lý
dưới
góc
độ
công
bằng
xã
hội.
Thế
nhưng
tư
duy
trồng
lúa
vì
mọi
giá
này
đã
bắt
rễ
quá
sâu,
và
gắn
với
những
quyền
lợi
thương
mại
rất
lớn”.
Thanh
Xuân
lược
dịch
từ
bài
viết
của
Mike
Ives
đăng
trên
chuyên
trang
Yale
Environment
360
về
môi
trường
của
Đại
học
Yale
http://e360.yale.edu/content/feature.msp?id=2670