Người
lao
động
đang
phải
đối
mặt
với
nhiều
nguy
cơ,
khi
nền
kinh
tế
chung
gặp
khó
khăn,
khiến
doanh
nghiệp
phải
đóng
cửa,
giải
thể
hàng
loạt.
Trong
bối
cảnh
kinh
tế
thị
trường,
không
ít
DN
đã
“quỵt”
quyền
lợi
của
NLĐ.
PV đã
có
buổi
trao
đổi
với
ông
Phạm
Minh
Huân,
Thứ
trưởng
Bộ
Lao
động
-
Thương
binh
và
Xã
hội
xung
quanh
vấn
đề
bảo
vệ
quyền
lợi
NLĐ.
Tình
hình
thực
tế
cho
thấy,
tiếp
tục
trong
trong
những
tháng
đầu
năm
nay,
số
lượng
người
mất
việc
làm
trên
phạm
vi
toàn
quốc
đã
tăng
nhanh,
do
hàng
loạt
doanh
nghiệp(DN)
rơi
vào
phá
sản,
tạm
ngừng
hoặc
thu
hẹp
sản
xuất,
kinh
doanh.
Như
vậy,
đời
sống
của
nhiều
người
lao
động
(NLĐ)
đang
gặp
nhiều
khó
khăn.
Trước
thực
tế
này,
Bộ
có
động
thái
gì
hỗ
trợ
người
lao
động?
Hiện
nay,
Bộ
đã
có
chỉ
đạo
các
Cục
Việc
làm
theo
dõi
biến
động
trên
thị
trường
lao
động
nhằm
đưa
ra
những
điều
chỉnh
cụ
thể,
nhằm
đưa
ra
chính
sách,
trợ
giúp
người
lao
động
gặp
khó
khăn.
Dù
vậy,
cần
nhìn
rõ,
đặc
điểm
loại
hình
doanh
nghiệp
nước
ta
chủ
yếu
là
doanh
nghiệp
vừa
và
nhỏ.
Cả
nước
vẫn
còn
trên
nửa
triệu
DN
tư
nhân
đang
hoạt
động,
sản
xuất,
nhưng
chỉ
ở
quy
mô
nhỏ.
Do
đó,
“nội
lực”
của
của
DN
thực
sự
chưa
đủ
để
chống
đỡ
lâu
dài,
khi
nền
kinh
tế
chung
gặp
khó
khăn.
Đây
cũng
là
nguyên
nhân
khiến
hàng
loạt
doanh
gặp
bị
phá
sản
khi
thị
trường
thu
hẹp.
Dù
vậy,
ở
không
những
thành
phố
lớn
vẫn
có
thêm
doanh
nghiệp
mới
thành
lập,
có
nhiều
dự
án
mới
mở
ra,
cần
nhiều
nhân
lực,
NLĐ
vẫn
còn
rất
nhiều
sự
lựa
chọn.
Vì
thế,
vẫn
diễn
ra
hình
thức
dịch
chuyển
lao
động
từ
khu
vực
này
sang
khu
vực
khác,
hoặc
người
lao
động
tạm
thời
chưa
tìm
được
việc
làm
do
tìm
nơi
làm
việc
có
điều
kiện
tốt
hơn
chỗ
cũ,
chứ
không
phải
họ
thất
nghiệp
do
thiếu
việc
làm.
Lại
có
thực
tế,
tại
nhiều
nơi,
dù
có
việc
làm
nhưng
NLĐ
vẫn
trong
tình
cảnh
không
hợp
đồng,
không
bảo
hiểm,
không
được
hưởng
bất
cứ
quyền
lợi
gì
khi
bị
mất
việc.
Cơ
quan
chức
năng
đã
làm
gì
để
giải
quyết
thực
trạng
này?
Đây
là
một
thực
tế
đang
diễn
ra
ở
xã
hội,
hiện
tượng
DN
“quỵt”
quyền
lợi
của
NLĐ
không
phải
là
hiếm
gặp
ở
thị
trường
lao
động
nước
ta.
Nguyên
nhân,
cũng
xuất
phát
từ
đặc
điểm
mô
hình
DN
kinh
doanh,
sản
xuất
nhỏ
chiếm
tỷ
trọng
rất
lớn
khối
DN.
NLĐ
thì
trình
độ
hạn
chế,
nên
thường
tham
gia
công
việc
giản
đơn,
kéo
theo
hiểu
biết
về
luật
pháp
mơ
hồ.
Nhiều
người
không
biết
cách
bảo
vệ
quyền
lợi
cho
chính
mình
khi
bị
mất
việc.
Đứng
trước
thực
tế
này,
Bộ
vẫn
đang
tiếp
tục
tăng
cường
giám
sát,
quản
lý,
kiểm
tra,
cũng
như
nâng
cao
nhận
thức
của
DN
trong
vấn
đề
NLĐ
chính
là
nguồn
tạo
ra
lợi
nhuận.
Do
đó,
cần
phải
chia
sẻ
quyền
lợi
của
mình
với
người
lao
động
sao
cho
hài
hòa.
Tuy
nhiên,
để
bảo
vệ
mình,
ngay
bản
thân
NLĐ
cũng
cần
trang
bị
thêm
thông
tin,
có
ý
thức
đòi
hỏi
quyền
lợi
của
mình
trong
quá
trình
đàm
phán
với
đối
với
chủ
sử
dụng
lao
động.
Cùng
đó,
vấn
đề
cần
nâng
cao
vai
trò
của
tổ
chức
công
đoàn,
tổ
chức
công
đoàn
hỗ
trợ,
luật
pháp
nhằm
bảo
vệ
quyền
lợi
cho
công
đoàn
viên
là
rất
quan
trọng
và
thiết
yếu.
Để
giải
quyết
phần
gốc
Chính
phủ
vẫn
tiếp
tục
khuyến
khích
tăng
quy
mô
DN.
Điều
này
sẽ
tạo
thêm
việc
làm
cho
lực
lượng
lao
động,
đồng
thời
tăng
tính
chất
bền
vững
của
DN.
Dù
vậy,
thưa
Thứ
trưởng,
trong
thời
điểm
hiện
tại,
mức
lương
của
NLĐ
đã
và
vẫn
không
đuổi
kịp
tốc
độ
“vũ
bão”
của
giá,
đặc
biệt
là
giá
thực
phẩm.
Đời
sống
của
NLĐ
đang
ngày
càng
nhiều
khó
khăn?
Từ
quý
III
năm
2011,
Chính
phủ
đã
điều
chỉnh
tăng
mức
lương
tối
thiểu
áp
dụng
4
vùng
trên
toàn
quốc
trước
lộ
trình
(
theo
thông
lệ,
1/1
hàng
năm
mới
điều
chỉnh
tăng
lương).
Đây
là
động
thái
nhằm
đảm
bảo
đời
sống
cho
NLĐ
trước
tình
hình
lạm
phát
tăng
cao.
Trong
bối
cảnh
kinh
tế
thị
trường
như
hiện
nay,
Chính
phủ
chỉ
có
thể
đưa
ra
quy
định
lương
sàn,
để
DN
không
được
đưa
ra
mức
thấp
hơn
mà
căn
cứ
vào
đó
quyết
định
mức
lương
trả
NLĐ.
Thường
việc
trả
lương
phải
tùy
theo
năng
lực,
điều
kiện
mỗi
DN.
Như
đã
nói,
cái
khó
nhất
là
năng
lực
DN.
Trong
khi
ở
nước
ta,
nhiều
đơn
vị
hoạt
động
trong
lĩnh
vực
gia
công,
với
năng
suất
thấp,
nên
mức
lương
họ
trả
NLĐ
khó
có
thể
cao
mà
chỉ
quanh
lương
tối
thiểu.
Do
đó,
một
mặt
Chính
Phủ
phải
nghiên
cứu
tăng
dần
mức
lương
sàn,
đảm
bảo
đời
sống
NLĐ,
nhưng
mặt
khác
lại
phải
đảm
bảo
sự
sống
của
DN.
Dự
kiến,
trong
năm
nay,
sẽ
không
có
đợt
tăng
lương
tối
thiểu
nào
nữa.
Đến
quý
III
tới,
Bộ
mới
tính
toán
công
bố
mức
tăng
lương
tối
thiểu
cho
năm
sau
(1/1/2013).
Đây
là
vấn
đề
quan
trọng,
nhằm
tạo
ra
môi
trường
đầu
tư
ổn
định,
giúp
DN
có
thể
tiên
lượng
được
kế
hoạch
đầu
tư
sản
xuất
lâu
dài.
Thực
sự,
mỗi
động
thái
điều
chỉnh
lương
đều
tác
động
rất
lớn
đến
kế
hoạch
của
họ.
Nhưng
trong
những
tháng
đầu
năm
nay,
số
lượng
DN
phá
sản
lớn
hơn
nhiều
so
với
DN
mới
thành
lập?
Bức
tranh
kinh
tế
Việt
Nam
có
chỗ
tối,
nhưng
vẫn
còn
những
điểm
sáng.
Bộ
Kế
hoạch
Đầu
tư
cho
biết:
vẫn
có
nhiều
dự
án
nước
ngoài
vẫn
đầu
tư
vào
nước
ta.
Cùng
đó,
nhiều
dự
án
khác
vẫn
duy
trì
đầu
tư
ổn
định.
Ví
dụ
Tập
đoàn
Nike
Việt
nam,
vẫn
duy
trì
sản
xuất
với
số
lượng
lao
động
sử
dung
trên
200.000
người,
phân
bổ
ở
nhà
máy
khắp
3
miền
Bắc,
Trung,
Nam.
Đến
thời
điểm
này,
Chính
phủ
cũng
vẫn
đang
khuyến
khích
mọi
thành
phần
kinh
tế
thành
lập
DN,
tạo
công
ăn
việc
làm
cho
NLĐ,
bởi
ở
nước
ta
số
DN/
đầu
người
dân
vẫn
còn
rất
thấp.
Còn
theo
luật,
kể
cả
khi
DN
phá
sản
cũng
phải
ưu
tiên
đầu
tiên
quyền
lợi
của
người
lao
động
trước
tiên.
Khi
mất
việc,
nhiều
người
cũng
đã
biết
tìm
đến
Bảo
hiểm
thất
nghiệp
để
nhận
hỗ
trợ.
Theo
báo
cáo,
quỹ
này
vẫn
đang
hoạt
động
khá
hiệu
quả.
Tình
trạng
số
lượng
người
đăng
ký
xin
hưởng
bảo
hiểm
thất
nghiệp
ngày
càng
gia
tăng
có
dẫn
đến
nguy
cơ
vỡ
quỹ
hay
không,
thưa
Thứ
trưởng?
Rất
khó
xảy
ra
nguy
cơ
vỡ
quỹ
đối
với
Bảo
hiểm
Thất
nghiệp,
bởi
đặc
điểm
đây
là
loại
hình
bảo
hiểm
ngắn
hạn
được
điều
chỉnh
ngay
sau
1
-
2
năm
hoạt
động.
Trong
trường
hợp
nguồn
thu
lớn
và
chi
nhỏ
thì
cơ
quan
chức
năng
sẽ
điều
chỉnh
thu
ít,
giảm
số
tiền
phải
đóng.
Ngược
lại,
nguồn
chi
có
nguy
cơ
lớn
hơn
hoặc
bằng
thu,
thì
lập
tức
họ
sẽ
điều
chỉnh
năm
sau
tỷ
lệ
thu
cao
hơn.
Thực
tế,
hiện
Bảo
hiểm
Thất
nghiệp
đang
kết
dư.
Khác
với
Bảo
hiểm
hưu
trí,
là
câu
chuyện
của
15-
20
-
30
năm,
với
nhiều
yếu
tố
khó
lường,
nên
có
thể
gặp
nguy
cơ
vỡ
quỹ.
Trân
trọng
cảm
ơn
Thứ
trưởng!