Đồng
bằng
sông
Cửu
Long
(ĐBSCL)
là
vùng
đất
giàu
tiềm
năng
với
lúa
gạo,
thủy
sản,
cây
ăn
trái…
Tuy
nhiên,
qua
nhiều
năm
tập
trung
khai
thác,
tài
nguyên
đã
cạn
dần.
Cùng
với
sự
đầu
tư
không
tương
xứng
về
giáo
dục,
y
tế,
cơ
sở
hạ
tầng…,
ĐBSCL
trở
nên
lạc
hậu
toàn
diện
so
với
nhiều
khu
vực
khác
Nhiều
thế
mạnh
mà
vẫn
yếu!
Không
phát
huy
được
thế
mạnh
nên
ở
ĐBSCL,
cơ
sở
hạ
tầng
yếu
kém,
đời
sống
nông
thôn
chậm
phát
triển,
khoảng
cách
giàu
-
nghèo
giữa
thành
thị
và
nông
thôn
ngày
càng
tăng
ĐBSCL
có
diện
tích
tự
nhiên
khoảng
4
triệu
ha,
trong
đó
có
1,68
triệu
ha
đất
phèn
(chiếm
44%
diện
tích
chung)
tập
trung
ở
Đồng
Tháp
Mười,
Tứ
giác
Long
Xuyên.
Đất
phù
sa
có
1,16
triệu
ha
(chiếm
30%)
tập
trung
dọc
theo
hai
bờ
sông
Tiền
và
sông
Hậu.
Đất
mặn
ven
biển
có
0,7
triệu
ha
(chiếm
18%),
trồng
rừng
ngập
mặn
và
các
loại
đất
khác
chiếm
8%.
ĐBSCL
nằm
trong
vùng
khí
hậu
ôn
hòa,
nhiệt
độ
trung
bình
27oC,
lượng
mưa
trung
bình
hằng
năm
từ
1.500
-
2.000
mm,
lũ
lụt
xảy
ra
từ
cuối
tháng
8
kéo
dài
đến
tháng
11…
Những
điều
kiện
khí
hậu
này
kết
hợp
với
nguồn
đất
phù
sa
màu
mỡ
đã
giúp
ĐBSCL
trở
thành
vựa
lúa,
thủy
sản
và
trái
cây
lớn
nhất
nước.
Sản
lượng
trái
cây
ở
ĐBSCL
hằng
năm
rất
lớn
nhưng
thường
rơi
vào
cảnh
“trúng
mùa,
rớt
giá”.
Trong
ảnh:
Chăm
sóc
bưởi
Năm
Roi
tại
xã
Mỹ
Hòa,
huyện
Bình
Minh
-
Vĩnh
Long
Nhận
diện
tiềm
năng
Theo
số
liệu
từ
Ban
Chỉ
đạo
Tây
Nam
Bộ,
từ
năm
2001-2010,
năng
suất
lúa
vùng
ĐBSCL
tăng
từ
4,3
tấn/ha
lên
6,3
tấn/ha,
nâng
sản
lượng
từ
16
triệu
tấn
lên
21,6
triệu
tấn.
Hằng
năm,
xuất
khẩu
trên
6
triệu
tấn
gạo,
đạt
kim
ngạch
trên
3
tỉ
USD,
chiếm
khoảng
90%
kim
ngạch
xuất
khẩu
của
cả
nước.
Cây
ăn
trái
phát
triển
nhanh
đã
hình
thành
các
vùng
sản
xuất
hàng
hóa
tập
trung
gắn
với
nhu
cầu
thị
trường,
một
số
giống
đã
có
thương
hiệu
như
xoài
cát
Hòa
Lộc,
bưởi
Năm
Roi,
vú
sữa
Lò
Rèn…
Đến
cuối
năm
2010,
toàn
vùng
có
hơn
400.000
ha
cây
ăn
trái,
chiếm
40%
diện
tích
cả
nước,
đạt
3,5
triệu
tấn,
tăng
1
triệu
tấn
so
với
năm
2001,
chiếm
khoảng
70%
sản
lượng
trái
cây
cả
nước.
Ngoài
ra,
ĐBSCL
là
vùng
nuôi,
đánh
bắt
thủy
sản
lớn
nhất
nước,
chiếm
70%
diện
tích
nuôi,
58%
sản
lượng
thủy
sản
cả
nước.
Trong
những
năm
qua,
cơ
cấu
sản
xuất
trong
ngành
thủy
sản
chuyển
biến
theo
hướng
tăng
tỉ
trọng
nuôi
trồng
từ
236.200
ha
năm
2001
lên
736.400
ha
năm
2010,
sản
lượng
từ
444.000
tấn
lên
1,9
triệu
tấn,
tăng
4,4
lần.
Trong
đó
xuất
khẩu
cá
tra,
tôm
trở
thành
những
ngành
kinh
tế
chiến
lược
của
quốc
gia.
Ông
Nguyễn
Thanh
Hải,
Chánh
Văn
phòng
Ban
Chỉ
đạo
Tây
Nam
Bộ,
nhận
định:
“Đạt
được
những
thành
tựu
như
trên
là
nhờ
Nghị
quyết
21
của
Bộ
Chính
trị
được
ban
hành
kịp
thời,
trong
đó
đã
định
hướng
rõ,
đánh
giá
đúng
đặc
điểm,
vị
trí
quan
trọng,
tiềm
năng,
lợi
thế
và
những
khó
khăn
của
vùng,
làm
cơ
sở
cho
các
địa
phương,
bộ,
ngành
ưu
tiên
mục
tiêu,
tập
trung
tổ
chức
thực
hiện”.
Chính
vì
vậy,
tốc
độ
tăng
trưởng
kinh
tế
bình
quân
toàn
vùng
giai
đoạn
2001-2010
đạt
11,7%/năm,
giá
trị
sản
xuất
năm
2010
đạt
gần
337.000
tỉ
đồng,
giá
trị
kim
ngạch
xuất
khẩu
toàn
vùng
đạt
9,3
tỉ
USD.
Làm
ăn
manh
mún,
đầu
tư
ít
TS
Lê
Văn
Bảnh,
Viện
trưởng
Viện
Lúa
ĐBSCL,
cho
rằng:
“Theo
một
báo
cáo
gần
đây,
Nhà
nước
đầu
tư
cho
nông
nghiệp
ngày
càng
ít
đi.
Ngành
nông
nghiệp
đóng
góp
cho
GDP
hơn
20%
nhưng
theo
kiểm
tra
của
Quốc
hội,
việc
đầu
tư
lại
chưa
tới
7%,
không
tương
xứng
với
tiềm
năng”.
Do
vậy,
cơ
sở
hạ
tầng
yếu
kém,
đời
sống
nông
thôn
chậm
phát
triển,
khoảng
cách
giàu
-
nghèo
giữa
thành
thị
và
nông
thôn
ngày
càng
tăng.
Ở
các
nước
trên
thế
giới,
nơi
nào
không
trồng
lúa
được
họ
mới
làm
công
nghiệp.
Còn
Việt
Nam
và
khu
vực
ĐBSCL
thì
ngược
lại,
nơi
nào
có
phương
tiện
đường
thủy,
đường
bộ
tốt
thì
dành
làm
công
nghiệp,
gây
lãng
phí
lớn.
Nông
dân
làm
ra
hạt
lúa
cho
hàng
chục
triệu
người
có
bát
cơm
ngon
nhưng
hiện
nay,
đời
sống
của
đại
bộ
phận
này
còn
nghèo,
chỉ
có
doanh
nghiệp
mới
thu
nguồn
lợi
lớn
từ
lúa
gạo”.
ĐBSCL
là
vùng
nuôi,
đánh
bắt
thủy
sản
lớn
nhất
nước,
chiếm
70%
diện
tích
nuôi,
58%
sản
lượng
thủy
sản
cả
nước.
Trong
ảnh:
Thu
hoạch
cá
thát
lát
ở
Hậu
Giang.
Ảnh:
NGỌC
TRINH
TS
Nguyễn
Văn
Hòa,
Phó
Viện
trưởng
Viện
Nghiên
cứu
Cây
ăn
quả
miền
Nam,
cho
biết:
“Sản
xuất
trái
cây
ở
ĐBSCL
còn
manh
mún,
nhỏ
lẻ,
làm
ra
sản
lượng
khá
lớn
nhưng
đầu
ra
không
ổn
định.
Tuy
hiện
nay
có
chương
trình
VietGAP
áp
dụng
cho
một
số
loại
cây
ăn
trái
nhưng
diện
tích
còn
quá
nhỏ,
không
đáp
ứng
nhu
cầu
thị
trường
ngoài
nước”.
Theo
một
cán
bộ
Viện
Kinh
tế
và
Quy
hoạch
thủy
sản,
ĐBSCL
có
tiềm
năng
khai
thác
thủy
hải
sản
dồi
dào
nhưng
cơ
sở
hạ
tầng
phục
vụ
cho
khai
thác
như:
cảng
cá;
bến
cá;
chợ
cá;
khu
neo
tránh,
trú
bão
chưa
đáp
ứng
nhu
cầu
năng
lực
tàu
thuyền
rất
lớn
trong
vùng.
Theo
đánh
giá
của
Ban
Chỉ
đạo
Tây
Nam
Bộ,
kết
cấu
hạ
tầng
giao
thông,
thủy
lợi
tuy
được
tập
trung
đầu
tư
cho
ĐBSCL
trong
những
năm
qua
nhưng
vẫn
chưa
đáp
ứng
yêu
cầu
phát
triển.
Các
công
trình
cầu
Vàm
Cống,
tuyến
đường
cao
tốc
Trung
Lương
-
Cần
Thơ,
tuyến
đường
sắt
TPHCM
-
Mỹ
Tho
triển
khai
ì
ạch.
Những
tuyến
đường
huyết
mạch
xuống
cấp
như
Quốc
lộ
91
nối
TP
Cần
Thơ
với
TP
Long
Xuyên
(An
Giang)
và
nối
Long
Xuyên
với
biên
giới.
Hiện
còn
144
xã
chưa
có
đường
ô
tô
đến
trung
tâm
xã;
các
cảng
nằm
dọc
tuyến
sông
Tiền,
sông
Hậu,
cảng
biển
Đại
Ngãi,
Hòn
Chông
chưa
được
đầu
tư
xây
dựng.
Về
thủy
lợi,
chương
trình
ngọt
hóa
bán
đảo
Cà
Mau
và
dự
án
thủy
lợi
Ba
Lai
(Bến
Tre)
đầu
tư
chưa
đồng
bộ…
Không
thể
chỉ
dựa
vào
tiềm
năng
Giai
đoạn
2001-2010,
cơ
cấu
kinh
tế
của
vùng
ĐBSCL
chuyển
dịch
theo
hướng
tích
cực.
Năm
2000,
tỉ
trọng
khu
vực
I
(nông
-
lâm
-
thủy
sản)
chiếm
53,5%,
khu
vực
II
(công
nghiệp
-
xây
dựng)
là
18,5%,
khu
vực
III
(dịch
vụ)
là
28%.
Nhưng
đến
năm
2010,
cơ
cấu
kinh
tế
các
khu
vực
tương
ứng
là
39%,
26%
và
35%.
Điều
này
cho
thấy
nông
nghiệp
vẫn
đóng
vai
trò
chủ
đạo
của
vùng
ĐBSCL.
TS
Võ
Hùng
Dũng,
Giám
đốc
Phòng
Thương
mại
và
Công
nghiệp
Việt
Nam
-
Chi
nhánh
Cần
Thơ
(VCCI
Cần
Thơ),
nói:
“Tiềm
năng
lúa
gạo,
thủy
sản,
trái
cây
như
bệ
phóng
giúp
đất
nước
vượt
qua
giai
đoạn
nghèo
khó
nhưng
chỉ
dựa
vào
tiềm
năng
này
mà
hy
vọng
đời
sống
người
dân
khá
lên
là
không
thể.
Nếu
chỉ
dựa
vào
tiềm
năng
trời
cho,
chỉ
khai
thác
mà
không
đầu
tư,
về
lâu
dài
nó
sẽ
suy
giảm,
kéo
theo
tăng
trưởng
thấp”. |
Kỳ
tới:
Chất
lượng
sống
sụt
giảm